Phát triển nông nghiệp công nghệ kỹ thuật cao – bước đột phá trong phát triển kinh tế
Là một tỉnh miền núi thuộc vùng Nam Tây Nguyên, Đắk Nông có nhiều lợi thế về tài nguyên đất đai, khí hậu, nguồn lao động và điều kiện sinh thái phù hợp cho phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, nhất là các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, hồ tiêu, cao su, điều; các sản phẩm cây hằng năm như ngô lai, bông vải, đậu nành, mía và các loại hoa, rau, củ quả nhiệt đới, á nhiệt đới; phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm…
Trong những năm đầu chia tách tỉnh, nền kinh tế của Đắk Nông có điểm xuất phát thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội kém phát triển, nông nghiệp chiếm tỷ trọng trên 62% tổng sản phẩm. Đến nay, ngành nông nghiệp của tỉnh đã có những bước phát triển tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa. Nhiều vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây lương thực, thực phẩm, chăn nuôi từng bước được hình thành với trình độ sản xuất ngày càng cao. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhất là về giống, kỹ thuật canh tác, điều chỉnh mùa vụ và chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần đưa giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng bình quân hằng năm giai đoạn 2005 – 2009 đạt trên 20%, chiếm 58% tổng giá trị sản xuất toàn tỉnh. Tổng giá trị ngành nông nghiệp (năm 2009) đạt 3.702 tỷ đồng (tăng 2,4 lần so với năm 2005), chiếm 55,35% tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh. Diện tích gieo trồng tăng bình quân hằng năm 10% (tính riêng năm 2009 đạt 241.000 ha, tổng sản lượng lương thực đạt 297.900 tấn), tốc độ tăng hằng năm trên 15%, bình quân lương thực trên đầu người đạt 610kg/năm, đảm bảo an ninh lương thực, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu và giải quyết được nhiều việc làm trong khu vực nông thôn.
Những kết quả ban đầu
Vài năm trở lại đây, xu hướng sản xuất nông nghiệp chất lượng cao hay còn gọi là sản xuất nông nghiệp công nghệ kỹ thuật cao, với quy mô và mức độ khác nhau đã xuất hiện ở nhiều địa phương trong tỉnh, nhiều mô hình đem lại hiệu quả được các doanh nghiệp và hộ nông dân tích cực đầu tư phát triển. Thông qua chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi được triển khai rộng rãi ở hầu hết các huyện và thị xã Gia Nghĩa, người dân đã mạnh dạn ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, giống mới, chuyển dịch mùa vụ, biện pháp canh tác mới, đầu tư thâm canh, quản lý nguồn nước tưới, phòng chốn dịch bệnh… Qua đó, đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất cho kết quả cao: Đó là các mô hình sản xuất chanh dây với diện tích trên 1.000 ha, tập trung tại các huyện Đắk R’lấp, Tuy Đức, Đắk G’long và thị xã Gia Nghĩa, giá trị sản xuất đạt 300-500 triệu đồng/ha; khoai lang Nhật Bản đã trở thành thương hiệu có tiếng và được phát triển hàng ngàn ha tại các huyện Tuy Đức và Đắk Song, sản xuất 2 vụ/năm, đạt giá trị trên 100 triệu đồng/ha; khoai tây Atlantic mới được đưa vào sản xuất thử tại các huyện Tuy Đức, Đắk Song, Đắk Mil, sản xuất 2 vụ/năm, giá trị đạt 130-160 triệu đồng/ha; mô hình sản xuất chanh không hạt ở Đắk R’lấp, có giá trị từ 150-200 triệu đồng/ha; mô hình trồng hoa cúc tại thị xã Gia Nghĩa, hoa Lily tại Đắk Mil bước đầu rất thành công.
Bên cạnh đó, các mô hình cây ăn quả như sầu riêng ở Đắk Mil; cam, quýt, bưởi, măng cụt ở thị xã Gia Nghĩa; mô hình sản xuất rau an toàn trong nhà kính, nhà lưới… ở Cư Jút và thị xã Gia Nghĩa cũng mang lại giá trị sản xuất cao.
Trong chăn nuôi, nhờ áp dụng công nghệ mới, giống mới nên năng suất, sản lượng và chất lượng sản phẩm được cải thiện. Tại huyện Cư Jút đang sử dụng giống bò đực lai (Brahman đỏ) để cải tạo đàn bò thịt địa phương bước đầu thành công; các mô hình nuôi động vật hoang dã (nhím, lợn rừng, cá sấu, hươu, nai, đà điểu…) đã thu hút được sự quan tâm của nhiều hộ dân trong tỉnh.
Tuy nhiên, trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, tồn tại đó là sử dụng đất đai chưa hợp lý, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và ngành nghề nông thôn chuyển dịch chậm, sản xuất còn manh mún, tự phát, thiếu tính ổn định; quy mô sản xuất nhỏ lẻ không tập trung; trình độ sản xuất không đồng đầu, giá thành đầu tư cho sản xuất cao, chất lượng sản phẩm thấp, thiếu tính cạnh tranh. Việc sử dụng giống mới, công nghệ bảo quản chế biến sau thu hoạch; sản xuất gắn kết với thị trường và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm hàng hóa còn hạn chế chính là những tồn tại mà nông nghiệp Đắk Nông phải đối mặt và tìm cách tháo gỡ. Phát triển nông nghiệp cao là giải pháp mang tính bền vững để khắc phục với nhiều ưu điểm như năng suất cao hơn, giá thành rẻ hơn, chất lượng tốt hơn, thị trường thì ổn định hơn.
Giải pháp phát triển nông nghiệp chất lượng cao
Trên cơ sở các mô hình đã được khẳng định qua thực tế sản xuất trong tỉnh và kết quả nghiên cứu, khảo sát các tỉnh lân cận có điều kiện tương đồng và thị trường. Sản xuất nông nghiệp chất lượng cao tập trung vào các giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh việc quy hoạch vùng sản xuất: Trên cơ sở quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Đắk Nông đến năm 2020, tiếp tục xây dựng và thực hiện các quy hoạch chi tiết để quản lý và chủ động điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch cho phù hợp với từng giai đoạn và yêu cầu thị trường. Quy hoạch chăn nuôi và giết mổ tập trung, quy hoạch thủy sản. Công tác quy hoạch gắn liền với việc xây dựng các chương trình, đề án về đầu tư nghiên cứu, cơ sở sản xuất ứng dụng công nghệ mới, công nghệ sinh học trong sản xuất, sản xuất giống cây trồng vật nuôi; công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch làm cơ sở xây dựng chương trình phát triển nông nghiệp chất lượng cao phù hợp với quy hoạch và thị trường.
Hai là, về cơ chế chính sách. Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp chất lượng cao tỉnh Đắk Nông, giai đoạn 2010-2015. Đồng thời, rà soát, điều chỉnh, bổ sung và xây dựng mới các cơ chế chính sách nhằm thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp chất lượng cao và các đề án liên quan như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, chăn nuôi bò thịt chất lượng cao; phát triển mạng lưới khuyến nông, khuyến ngư, phát triển kinh tế tập thể (tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp), đặc biệt là chương trình xây dựng nông thôn mới. Định hướng sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm; liên kết chặt chẽ giữa 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà nước và doanh nghiệp) mà đặc biệt là mối quan hệ đối tác bền vững giữa nông dân và doanh nghiệp.
Ba là, nhân rộng các mô hình điển hình. Tổ chức điều tra, đánh giá tổng kết thực tế các mô hình đã đạt giá trị cao trên 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng/ha/năm như các mô hình rau, hoa, cây cảnh (thị xã Gia Nghĩa); ơt ngọt, khoai tây Atlantic, khoai lang (các huyện Tuy Đức, Đắk Song, Đắk Mil); chanh dây (Đắk R’lấp, Tuy Đức, Đắk G’long, thị xã Gia Nghĩa); cam quýt, măng cụt (thị xã Gia Nghĩa, Đắk G’long); chanh không hạt (Đắk R’lấp)… Các mô hình nuôi lợn rừng, nhím, ba ba, đà điểu, cá sấu… trên địa bàn toàn tỉnh để khuyến cáo, hướng dẫn nhân rộng.
Bốn là, huy động nguồn nhân lực. Chủ động và tích cực thực hiện liên kết, hợp tác và thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Thực hiện xây dựng lộ trình liên kết hợp tác với các viện, trường đại học, thu hút các doanh nghiệp đầu tư và gắn kết với vùng động lực phát triển phía Nam (TP. HCM, Bình Dương, Đồng Nai…) là các trung tâm công nghiệp, dịch vụ có tiềm năng lớn về khoa học kỹ thuật, công nghệ cao, nguồn vốn để có thể khai thác có hiệu quả các tiềm năng lợi thế của tỉnh trong nghiên cứu, đào tạo chuyển giao công nghệ và đầu tư sản xuất, chế biến, xúc tiến thương mại, xuất khẩu. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nguồn vốn, kỹ thuật đầu tư trong và ngoài tỉnh. Phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong nông nghiệp và đặc biệt giữa nông dân và doanh nghiệp nhằm đầu tư mở rộng sản xuất, gắn với chế biến tiêu thu, ổn định sản xuất và nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản, đảm bảo thị trường tiêu thụ và cũng là cơ sở để xây dựng các thương hiệu.
Năm là, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mọi đối tượng. Để thực hiện phong trào phát triển nông nghiệp chất lượng cao trong nông nghiệp, cần làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát triển nông nghiệp chất lượng cao. Phát triển nông nghiệp chất lượng cao là then chốt, là giải pháp xuyên suốt, là bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2010-2015. Tạo tiền đề quan trọng cho quá trình xây dựng nông thôn mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Việc thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp chất lượng cao không chỉ là trách nhiệm của ngành nông nghiệp, của chính quyền các cấp mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp chặt chẽ của chính quyền và các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, trong đó đặc biệt là vai trò nòng cốt của Hội Nông dân tỉnh và hành động thiết thực của cán bộ nông dân trong sản xuất nông nghiệp chất lượng cao.
Ngoài ra, cũng cần tích cực thực hiện liên kết, hợp tác và thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, thực hiện xây dựng lộ trình liên kết, hợp tác với các viện, trường đại học, thu hút các doanh nghiệp đầu tư và gắn kết với vùng động lực phát triển phía Nam, đặc biệt là với TP. HCM, Bình Dương, Đồng Nai… là các trung tâm công nghiệp, dịch vụ có tiềm năng lớn về khoa học kỹ thuật, công nghệ cao, vốn để khai thác có hiệu quả các tiềm năng lợi thế của tính.








