Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 18/02/2008 16:49 (GMT+7)

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam

NNCNC đã được đề cập và hiện thực hoá từ đầu những năm 60 của thế kỷ trước tại các nước phát triển. Một số nước và vùng lãnh thổ đi tiên phong trong lĩnh vực này là Hoa Kỳ, Hà Lan, Israel, Nhật Bản, Đài Loan, úc, Trung Quốc… ở Việt Nam, khu NNCNC đã được đầu tư xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng… Một số doanh nghiệp (trong nước, nước ngoài, liên doanh) đã ứng dụng công nghệ cao để xây dựng những khu sản xuất rau, hoa, quả và đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, do chưa xác định đúng mục đích nên việc đầu tư chưa thật hiệu quả, chủ yếu mới dừng ở thử nghiệm và trình diễn công nghệ, sản lượng hàng hóa chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng về số lượng cũng như chất lượng.

Khái niệm, chức năng, đặc điểm của khu NNCNC

Về khái niệm:Có thể nói cho đến nay chưa có một định nghĩa nào toàn diện về NNCNC được chấp nhận. Theo chúng tôi thì NNCNC là “Nền nông nghiệp mà ở đó các loại hình công nghệ cao (cơ giới hoá, tự động hoá, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới và công nghệ sinh học) được ứng dụng tổng hợp, theo một quy trình khép kín, hoàn chỉnh nhằm khai thác hiệu quả nhất tài nguyên tự nhiên (đất đai, khí hậu) và tiềm năng của giống để đạt năng suất và chất lượng sản phẩm cao nhất một cách bền vững”. Như vậy, mục đích ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp là để đạt hiệu quả cao nhất trên một đồng vốn đầu tư, một đơn vị diện tích hoặc một ngày công lao động.

Tại những nước đang phát triển, NNCNC tập trung trong những khu vực có quy mô từ vài hécta đến hàng trăm hécta, còn ở các nước phát triển, công nghệ cao được ứng dụng trên quy mô toàn quốc. Như vậy tại đây sẽ không còn khái niệm khu NNCNC nữa vì cả nước đã là một “khu” sản xuất NNCNC.

Về chức năng:Khu NNCNC hiện nay có rất nhiều chức năng. Tuỳ thuộc vào mục đích và quy mô đầu tư mà khu NNCNC có thể có một hoặc nhiều chức năng sau đây:

Thứ nhất, khu NNCNC có chức năng nghiên cứu. Tại đây, các nhà khoa học có thể tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh công nghệ trên các đối tượng đã được thương mại hoá. Như vậy, về cơ bản các khu NNCNC không tiến hành các nghiên cứu cơ bán mà chủ yếu là nghiên cứu ứng dụng, hoàn thiện công nghệ. Tất nhiên các cơ sở này hoàn toàn có thể liên kết với các viện nghiên cứu, trường đại học để tiến hành nghiên cứu cơ bản.

Thứ hai, khu NNCNC có chức năng trình diễn, chuyển giao công nghệ. Tại đây các công nghệ mới từ các phòng thí nghiệm hoặc nhập khẩu từ nước ngoài được triển khai trong điều kiện cụ thể. Do vậy, cũng có thể nói khu NNCNC còn là nơi kiểm nghiệm công nghệ với quy mô công nghiệp trước khi tham gia sản xuất thương mại và chuyển giao cho người sản xuất.

Thứ ba, khu NNCNC có chức năng sản xuất hàng hóa. Đây có lẽ là chức năng quan trọng nhất, là cái đích cuối cùng và trên hết trong việc đầu tư xây dựng các khu NNCNC. Tại đây, các sản phẩm chất lượng tốt, trái vụ, năng suất siêu cao được sản xuất hàng loạt cho các thị trường được lựa chọn.

Thứ tư, khu NNCNC có chức năng đào tạo /ươm tạo doanh nghiệp công nghệ. ở đây các nhà khoa học và công nhân được đào tạo, cập nhật kiến thức mới cả về công nghệ và quản lý để tạo ra nguồn lực mới cho các khu NNCNC khác

Thứ năm, khu NNCNC còn có chức năng là nơi thư giãn, vui chơi, giải trí cho mọi tầng lớp lao động. Đến đây họ không chỉ được giới thiệu mà còn được thưởng thức các sản phẩm mới đó. Một số khu NNCNC còn được thiết kế như những khu du lịch sinh thái thực thụ.

Về đặc điểm:Tương tự như trong công nghiệp, NNCNC cũng có những tiêu chí của mình. Theo chúng tôi, công nghệ cao trong nông nghiệp có có 5 đặc điểm cơ bản sau đây: 1) Tích hợp được các thành tựu KH &CN mới và tiên tiến nhất, gắn kết với nhau; 2) Đầu tươ lớn, lãi suất lớn, chóng thu hồi vốn nhưng độ rủi ro lại cao; 3) Sản phẩm làm ra có hàm lơượng khoa học cao, sử dụng ít nguyên liệu, năng lượng (giá trị vật chất trong sản phẩm thấp, chủ yếu là công nghệ, tri thức); 4) Sản phẩm có tính đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu của nguời tiêu dùng về chủng loại, thời gian (trái vụ)…; 5) Công nghệ mang tính sinh thái vùng, không thể áp dụng máy móc từ vùng sinh thái này sang vùng sinh thái khác, đối tượng này với đối tượng khác.

Những đề xuất

Thứ nhất, căn cứ vào chức năng và đặc điểm của các khu NNCNC, chúng ta nên phân biệt rõ 2 loại để có chính sách đầu tư phù hợp. Một là, đó là các khu NNCNC mang tầm quốc gia có đầy đủ các chức năng cơ bản, song không xét nhiều đến hiệu quả kinh tế. Các khu này có thể coi là Trung tâm xuất sắc trong nông nghiệp và do Nhà nước đầu tư là chủ yếu. Loại hình thứ hai là các khu sản xuất chuyên ngành mang tính thương mại và do doanh nghiệp đầu tư 100%.

Thứ hai, điều kiện để hình thành các khu NNCNC cũng rất cần được xem xét một cách thấu đáo. Trước hết, sản phẩm phải có thị trường, do vậy vấn đề lựa chọn đối tượng để sản xuất là quan trọng nhất. Thứ hai, căn cứ vào đối tượng, cần phải xem xét có công nghệ cao tương ứng chưa, nếu chưa có thì dù sản phẩm có thị trường cũng sẽ không được lựa chọn. Thứ ba, có điều kiện để sản xuất phù hợp theo yêu cầu, bao gồm cơ sở hạ tầng (giao thông, điện nước, thông tin liên lạc), đất đai, khí hậu và thứ tư là yếu tố quyết định đến thành công, đó là ai đầu tư. Theo chúng tôi, các khu NNCNC có mục đích thương mại dứt khoát phải do doanh nghiệp đầu tư và trực tiếp quản lý; các nhà khoa học tham gia về kỹ thuật; Nhà nước hỗ trợ về cơ chế, chính sách.

Thứ ba, về nội dung mà các khu NNCNC nên tập trung. Trước mắt chúng ta nên tập trung cho các mô hình NNCNC trong trồng trọt với ưu tiên cho cây ăn quả, hoa, rau, nấm.. với các công đoạn: 1) Vườn ươm (thiết kế nhà lưới, công nghệ nhân giống, giá thể, dinh dưỡng, kỹ thuật tưới); 2) Sản xuất (thiết kế đồng ruộng, kể cả bậc thang, chăm sóc /tạo hình tán, tỉa trái, bao trái, kiểu giàn…) và 3) Sau thu hoạch (đóng gói, bảo quản, kỹ thuật kiểm tra nhanh chất lượng /dư lượng, tên gọi xuất xứ /nhãn hàng hoá…). Tuy nhiên, ở quy mô lớn, chúng tôi thấy các mô hình trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản đều có thể sản xuất kết hợp trong các khu NNCNC. Ngay như trong sản xuất lúa, thế giới cũng coi Việt Nam là một trong những nước có nhiều kết quả ứng dụng công nghệ cao với các kỹ thuật lên luống và quản lý nước khô - ngập luân phiên, cấy mạ khay hay sạ hàng, mạ ném; ứng dụng bảng so màu lá, IPM..., cơ giới hoá các khâu cắt, đập, sấy, đánh bóng gạo, bảo quản trong các bao nilon chân không...

Thứ tư, về bước đi. Căn cứ vào các nội dung nêu trên, chúng tôi kiến nghị Nhà nước và các địa phương nên có quy hoạch tổng thể phát triển NNCNC với địa bàn, quy mô và nội dung phù hợp. Trước mắt, nên chia quá trình này làm 3 giai đoạn, có thể kế tiếp nhau song cũng có thể tiến hành cùng nhau tuỳ thuộc điều kiện. Giai đoạn 1 nên tập trung cho các mô hình NNCNC của Nhà nước, do Nhà nước đầu tư và quản lý là chủ yếu. Các khu này không cần diện tích qúa lớn, tối đa chỉ cần 10-20 ha và được giao thực hiện đầy đủ 5 chức năng cơ bản. Căn cứ vào hiệu quả giai đoạn một, Nhà nước sẽ xây dựng các khu NNCNC như các khu công nghiệp với đầy đủ cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc. Doanh nghiệp sẽ căn cứ vào quy hoạch mà đăng ký thuê đất để đầu tư, sản xuất. Giai đoạn 3, khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm sản phẩm, liên kết với địa phương để xây dựng khu sản xuất NNCNC mang tính thương mại, Nhà nước hỗ trợ chính sách về thuế, thuê đất, nâng cấp cơ sở hạ tầng, quảng cáo tiếp thị và tổ chức hiệp hội ngành hàng...                                                                   

Với một đất nước vẫn còn trên 70% dân số sống bằng nông nghiệp, trong khi đất đai giảm đi, dân số tăng nhanh, nhu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng cao hơn, đòi hỏi chúng ta phải có hướng đi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện thu nhập, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Hướng đi đó chính là xây dựng một nền sản xuất NNCNC. Tất nhiên, để chiến lược này thành công, rất cần các nhà quản lý, nhà khoa học nghiên cứu kỹ bài học kinh nghiệm của các nước và các mô hình đã và đang xây dựng ở Việt Nam cả về chính sách lẫn kỹ thuật, từ đó rút ra lộ trình phù hợp cho Việt Nam để vừa có thể đi tắt đón đầu lại vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của chúng ta để NNCNC thật sự hiệu quả và mang tính phổ biến.

Nguồn: Hoạt động khoa học, số 12/2007, tr 23

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.