Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam
NNCNC đã được đề cập và hiện thực hoá từ đầu những năm 60 của thế kỷ trước tại các nước phát triển. Một số nước và vùng lãnh thổ đi tiên phong trong lĩnh vực này là Hoa Kỳ, Hà Lan, Israel, Nhật Bản, Đài Loan, úc, Trung Quốc… ở Việt Nam, khu NNCNC đã được đầu tư xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng… Một số doanh nghiệp (trong nước, nước ngoài, liên doanh) đã ứng dụng công nghệ cao để xây dựng những khu sản xuất rau, hoa, quả và đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, do chưa xác định đúng mục đích nên việc đầu tư chưa thật hiệu quả, chủ yếu mới dừng ở thử nghiệm và trình diễn công nghệ, sản lượng hàng hóa chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng về số lượng cũng như chất lượng.
Khái niệm, chức năng, đặc điểm của khu NNCNC
Về khái niệm:Có thể nói cho đến nay chưa có một định nghĩa nào toàn diện về NNCNC được chấp nhận. Theo chúng tôi thì NNCNC là “Nền nông nghiệp mà ở đó các loại hình công nghệ cao (cơ giới hoá, tự động hoá, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới và công nghệ sinh học) được ứng dụng tổng hợp, theo một quy trình khép kín, hoàn chỉnh nhằm khai thác hiệu quả nhất tài nguyên tự nhiên (đất đai, khí hậu) và tiềm năng của giống để đạt năng suất và chất lượng sản phẩm cao nhất một cách bền vững”. Như vậy, mục đích ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp là để đạt hiệu quả cao nhất trên một đồng vốn đầu tư, một đơn vị diện tích hoặc một ngày công lao động.
Tại những nước đang phát triển, NNCNC tập trung trong những khu vực có quy mô từ vài hécta đến hàng trăm hécta, còn ở các nước phát triển, công nghệ cao được ứng dụng trên quy mô toàn quốc. Như vậy tại đây sẽ không còn khái niệm khu NNCNC nữa vì cả nước đã là một “khu” sản xuất NNCNC.
Về chức năng:Khu NNCNC hiện nay có rất nhiều chức năng. Tuỳ thuộc vào mục đích và quy mô đầu tư mà khu NNCNC có thể có một hoặc nhiều chức năng sau đây:
Thứ nhất, khu NNCNC có chức năng nghiên cứu. Tại đây, các nhà khoa học có thể tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh công nghệ trên các đối tượng đã được thương mại hoá. Như vậy, về cơ bản các khu NNCNC không tiến hành các nghiên cứu cơ bán mà chủ yếu là nghiên cứu ứng dụng, hoàn thiện công nghệ. Tất nhiên các cơ sở này hoàn toàn có thể liên kết với các viện nghiên cứu, trường đại học để tiến hành nghiên cứu cơ bản.
Thứ hai, khu NNCNC có chức năng trình diễn, chuyển giao công nghệ. Tại đây các công nghệ mới từ các phòng thí nghiệm hoặc nhập khẩu từ nước ngoài được triển khai trong điều kiện cụ thể. Do vậy, cũng có thể nói khu NNCNC còn là nơi kiểm nghiệm công nghệ với quy mô công nghiệp trước khi tham gia sản xuất thương mại và chuyển giao cho người sản xuất.
Thứ ba, khu NNCNC có chức năng sản xuất hàng hóa. Đây có lẽ là chức năng quan trọng nhất, là cái đích cuối cùng và trên hết trong việc đầu tư xây dựng các khu NNCNC. Tại đây, các sản phẩm chất lượng tốt, trái vụ, năng suất siêu cao được sản xuất hàng loạt cho các thị trường được lựa chọn.
Thứ tư, khu NNCNC có chức năng đào tạo /ươm tạo doanh nghiệp công nghệ. ở đây các nhà khoa học và công nhân được đào tạo, cập nhật kiến thức mới cả về công nghệ và quản lý để tạo ra nguồn lực mới cho các khu NNCNC khác
Thứ năm, khu NNCNC còn có chức năng là nơi thư giãn, vui chơi, giải trí cho mọi tầng lớp lao động. Đến đây họ không chỉ được giới thiệu mà còn được thưởng thức các sản phẩm mới đó. Một số khu NNCNC còn được thiết kế như những khu du lịch sinh thái thực thụ.
Về đặc điểm:Tương tự như trong công nghiệp, NNCNC cũng có những tiêu chí của mình. Theo chúng tôi, công nghệ cao trong nông nghiệp có có 5 đặc điểm cơ bản sau đây: 1) Tích hợp được các thành tựu KH &CN mới và tiên tiến nhất, gắn kết với nhau; 2) Đầu tươ lớn, lãi suất lớn, chóng thu hồi vốn nhưng độ rủi ro lại cao; 3) Sản phẩm làm ra có hàm lơượng khoa học cao, sử dụng ít nguyên liệu, năng lượng (giá trị vật chất trong sản phẩm thấp, chủ yếu là công nghệ, tri thức); 4) Sản phẩm có tính đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu của nguời tiêu dùng về chủng loại, thời gian (trái vụ)…; 5) Công nghệ mang tính sinh thái vùng, không thể áp dụng máy móc từ vùng sinh thái này sang vùng sinh thái khác, đối tượng này với đối tượng khác.
Những đề xuất
Thứ nhất, căn cứ vào chức năng và đặc điểm của các khu NNCNC, chúng ta nên phân biệt rõ 2 loại để có chính sách đầu tư phù hợp. Một là, đó là các khu NNCNC mang tầm quốc gia có đầy đủ các chức năng cơ bản, song không xét nhiều đến hiệu quả kinh tế. Các khu này có thể coi là Trung tâm xuất sắc trong nông nghiệp và do Nhà nước đầu tư là chủ yếu. Loại hình thứ hai là các khu sản xuất chuyên ngành mang tính thương mại và do doanh nghiệp đầu tư 100%.
Thứ hai, điều kiện để hình thành các khu NNCNC cũng rất cần được xem xét một cách thấu đáo. Trước hết, sản phẩm phải có thị trường, do vậy vấn đề lựa chọn đối tượng để sản xuất là quan trọng nhất. Thứ hai, căn cứ vào đối tượng, cần phải xem xét có công nghệ cao tương ứng chưa, nếu chưa có thì dù sản phẩm có thị trường cũng sẽ không được lựa chọn. Thứ ba, có điều kiện để sản xuất phù hợp theo yêu cầu, bao gồm cơ sở hạ tầng (giao thông, điện nước, thông tin liên lạc), đất đai, khí hậu và thứ tư là yếu tố quyết định đến thành công, đó là ai đầu tư. Theo chúng tôi, các khu NNCNC có mục đích thương mại dứt khoát phải do doanh nghiệp đầu tư và trực tiếp quản lý; các nhà khoa học tham gia về kỹ thuật; Nhà nước hỗ trợ về cơ chế, chính sách.
Thứ ba, về nội dung mà các khu NNCNC nên tập trung. Trước mắt chúng ta nên tập trung cho các mô hình NNCNC trong trồng trọt với ưu tiên cho cây ăn quả, hoa, rau, nấm.. với các công đoạn: 1) Vườn ươm (thiết kế nhà lưới, công nghệ nhân giống, giá thể, dinh dưỡng, kỹ thuật tưới); 2) Sản xuất (thiết kế đồng ruộng, kể cả bậc thang, chăm sóc /tạo hình tán, tỉa trái, bao trái, kiểu giàn…) và 3) Sau thu hoạch (đóng gói, bảo quản, kỹ thuật kiểm tra nhanh chất lượng /dư lượng, tên gọi xuất xứ /nhãn hàng hoá…). Tuy nhiên, ở quy mô lớn, chúng tôi thấy các mô hình trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản đều có thể sản xuất kết hợp trong các khu NNCNC. Ngay như trong sản xuất lúa, thế giới cũng coi Việt Nam là một trong những nước có nhiều kết quả ứng dụng công nghệ cao với các kỹ thuật lên luống và quản lý nước khô - ngập luân phiên, cấy mạ khay hay sạ hàng, mạ ném; ứng dụng bảng so màu lá, IPM..., cơ giới hoá các khâu cắt, đập, sấy, đánh bóng gạo, bảo quản trong các bao nilon chân không...
Thứ tư, về bước đi. Căn cứ vào các nội dung nêu trên, chúng tôi kiến nghị Nhà nước và các địa phương nên có quy hoạch tổng thể phát triển NNCNC với địa bàn, quy mô và nội dung phù hợp. Trước mắt, nên chia quá trình này làm 3 giai đoạn, có thể kế tiếp nhau song cũng có thể tiến hành cùng nhau tuỳ thuộc điều kiện. Giai đoạn 1 nên tập trung cho các mô hình NNCNC của Nhà nước, do Nhà nước đầu tư và quản lý là chủ yếu. Các khu này không cần diện tích qúa lớn, tối đa chỉ cần 10-20 ha và được giao thực hiện đầy đủ 5 chức năng cơ bản. Căn cứ vào hiệu quả giai đoạn một, Nhà nước sẽ xây dựng các khu NNCNC như các khu công nghiệp với đầy đủ cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc. Doanh nghiệp sẽ căn cứ vào quy hoạch mà đăng ký thuê đất để đầu tư, sản xuất. Giai đoạn 3, khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm sản phẩm, liên kết với địa phương để xây dựng khu sản xuất NNCNC mang tính thương mại, Nhà nước hỗ trợ chính sách về thuế, thuê đất, nâng cấp cơ sở hạ tầng, quảng cáo tiếp thị và tổ chức hiệp hội ngành hàng...
Với một đất nước vẫn còn trên 70% dân số sống bằng nông nghiệp, trong khi đất đai giảm đi, dân số tăng nhanh, nhu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng cao hơn, đòi hỏi chúng ta phải có hướng đi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện thu nhập, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Hướng đi đó chính là xây dựng một nền sản xuất NNCNC. Tất nhiên, để chiến lược này thành công, rất cần các nhà quản lý, nhà khoa học nghiên cứu kỹ bài học kinh nghiệm của các nước và các mô hình đã và đang xây dựng ở Việt Nam cả về chính sách lẫn kỹ thuật, từ đó rút ra lộ trình phù hợp cho Việt Nam để vừa có thể đi tắt đón đầu lại vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của chúng ta để NNCNC thật sự hiệu quả và mang tính phổ biến.








