Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 09/01/2012 21:15 (GMT+7)

Phát triển nhà ở cao tầng Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng xanh - hiện đại - bản sắc

1. Một số chỉ tiêu nhà ở thành phố

Theo Sở Xây dựng TPHCM, tính từ năm 2006 đến hết năm 2010, diện tích sàn xây dựng nhà ở của thành phố là 33,34 triệu m 2, mỗi năm xây dựng được 6,67 triệu m 2, nâng diện tích bình quân đầu người lên 14,3 m 2/người (năm 2005 là 10,4 m 2/người); giai đoạn 2011 - 2015, chỉ tiêu tổng diện tích nhà ở xây dựng mới đạt 39 triệu m 2, trong năm 2011 xây dựng mới khoảng 7,8 triệu m 2, nâng diện tích bình quân đầu người năm 2011 là 15 m 2/người. Những chỉ tiêu trên bao gồm các chương trình: nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp, nhà lưu trú công nhân, kí túc xá cho sinh viên, “thay thế 0,3 triệu m 2sàn chung cư”, di dời 15.000 căn hộ sống trên và ven kênh rạch, 30.000 căn hộ tái định cư, 12.500 căn học tái định cư phục vụ khu Đô thị mới Thủ Thiêm. Một tỉ lệ khá lớn trong đó là nhà chung cư cao tầng.

Trên cơ sở quy hoạch chung của thành phố được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 24/TTg ngày 26/10/2010), TPHCM đang nghiên cứu thay đổi mô hình nhà ở cho phù hợp với một đô thị hiện đại: Trung tâm thành phố cũ sẽ chuyển mô hình nhà ở từ thấp tầng sang nhà ở cao tầng (NOCT) hiện đại, giảm dân số, giảm mật độ xây dựng, tăng tầng cao công trình, để dành đất cho các không gian công cộng như cây xanh, đường giao thông. Các khu vực khác ưu tiên phát triển NOCT để tiết kiệm đất, dành đất cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, tăng cường cây xanh mặt nước. Các loại nhà thông minh, TKNL, giảm phát thải, sử dụng vật liệu tái chế hoặc sử dụng lại được ưu tiên xây dựng. Bên cạnh đó, các loại nhà ở với những diện tích khác nhau, mức độ tiện nghi khác nhau cũng sẽ được tập trung đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu mua hoặc cho thuê đa dạng của nhiều tầng lớp người dân. Thành phố đang cố gắng thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng lao động có chất xám, tăng lao động “cổ cồn trắng”, giảm bớt lao động thủ công, gia tăng tỉ trọng lao động khu vực dịch vụ lên 56%, khu vực công nghiệp và xây dựng là 42% và giảm khu vực nông nghiệp xuống còn 2% (Trung tâm Nghiên cứu đô thị và phát triển cộng đồng). Như vậy, chất lượng dân số sẽ tăng và đối tượng sử dụng NOCT sẽ là những người trí thức có thu nhập khá trở lên.

Sau 35 năm giải phóng và hơn 25 năm đổi mới, từ GDP đầu người năm 2005 hơn 1.660 USD đến năm 2010 đã là 2.800 USD, tăng 1,68 lần và đến năm 2015, con số này sẽ là 4.800 USD, tăng hơn 1,7 lần. Kinh tế phát triển, thu nhập tăng, đời sống được nâng cao, chất lượng sống của người dân cũng đòi hỏi cao hơn, cả về giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần. Người dân mong muốn nơi ở của mình, chẳng những có diện tích đầy đủ, trang thiết bị tiện nghi, môi trường xung quanh xanh, sạch, đẹp mà phải được thiết kế theo phong cách hiện đại, có sắc thái văn hóa địa phương với những không gian mở có chung, nửa chung nửa riêng và hoàn toàn riêng, kết hợp hài hòa trong một môi trường lành mạnh, thân thiện và đầy sức sống. Ngôi nhà cũng được thiết kế theo hướng kiến trúc xanh (KTX), bền vững, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính, giảm đảo nhiệt đô thị, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và bảo vệ môi trường.

2. Phát triển theo hướng kiến trúc xanh

Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn thế giới đang đứng trước một thảm họa lớn nhất trong lịch sử: Biến đổi khí hậu (BĐKH). Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), TPHCM là một trong mười thành phố trên thế giới bị đe dọa nhiều nhất bởi BĐKH. Còn theo công bố mới đây của Bộ Tài nguyên và Môi trường về dự báo nguy cơ BĐKH và nước biển dâng của Việt Nam thì đến năm 2050, mực nước biển có thể dâng khoảng 30 cm và đến cuối thế kỉ 21 sẽ là 75 cm. Khi đó, 204 km 2chiếm 10% diện tích của TPHCM bị ngập và năm 2100 sẽ có 472 km 2chiếm 23% diện tích thành phố sẽ bị ngập chìm trong nước biển. Đó là cảnh báo nguy cơ mà thành phố phải đối mặt vào cuối thế kỷ 21. Và hiện nay nguy cơ đó đang hiển hiện bởi những vấn nạn: nước ngập, kẹt xe và ô nhiễm môi trường.

Được biết, thành phố đã xây dựng chiến lược dài hạn về ứng phó, thích nghi với BĐKH, thực hiện quy hoạch tổng thể đô thị, liên kết các dự án phòng, chống lũ lụt, triều cường, ô nhiễm môi trường; lập kế hoạch sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên đất, nước, năng lượng, chất thải; phát triển vận tải công cộng, sử dụng công nghệ mới giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính, không gây ô nhiễm môi trường; xây dựng các công trình với tiêu chí thân thiện với môi trường; tăng mảng xanh của thành phố; tạo lập cuộc sống thân thiện với môi trường.

Thế giới hiện đang chứng kiến một quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ: 2/3 trong số 8 tỉ dân số thế giới sẽ sống trong các đô thị vào năm 2025 (Dự báo của Liên hợp quốc và Ngân hàng thế giới). Đô thị hóa đem lại sự phát triển và văn minh nhưng cũng gây áp lực lớn lên môi trường: Thu hẹp đất nông nghiệp, phá vỡ hệ sinh thái tự nhiên; làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, bao gồm khoáng sản, đất, nước, sinh vật; sử dụng nhiều sinh vật hóa thạch; thải ra một lượng chất thải khổng lồ vào môi trường. Áp lực lên môi trường đáng sợ nhất của đô thị hóa là gia tăng khí nhà kính, làm trái đất nóng lên, gây BĐKH và các hệ lụy của nó là băng tan, nước biển dâng cũng như các thảm họa khủng khiếp khác như động đất, sóng thần, gió bão, lũ lụt, cháy rừng, núi lửa, sạt lở đất... Hiện nay, BĐK đã cướp đi sinh mạng khoảng 30.000 người, gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho trên 300 triệu người mỗi năm (PGS. TS Phạm Đức Nguyên).

Chưa bao giờ trong lịch sử của mình, vấn đề BĐKH và những hệ lụy của nó lại được toàn thể nhân loại quan tâm đến vậy trong một chuỗi dài không dứt những sự kiện quan trọng mang tầm vóc quốc tế, khu vực, quốc gia và địa phương: Từ Hội nghị Stockholm, Thụy Điển năm 1972 với tuyên bố: “Việc bảo vệ và cải thiện môi trường con người là một vấn đề quan trọng tác động đến hạnh phúc của mọi người và sự phát triển kinh tế trên toàn thế giới” đến Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) năm 1987 đưa ra khái niệm: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến các thế hệ tương lai”; từ “Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển” ở Rio De Janero, Brasil năm 1992 khẳng định lại “Con người là trung tâm của những mối quan tâm về sự phát triển lâu bền” với Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21) là kế hoạch hành động chi tiết cho sự phát triển bền vững toàn cầu của thế kỉ 21 đến “Hội nghị Biến đổi khí hậu Liên hợp quốc 2009” hay còn gọi là “Hội nghị thượng đỉnh Cô-pen-ha-gen” ở Cô-pen-ha-gen, Đan Mạch từ 7 - 18/12/2009, tuy còn những bất đồng nhưng đã đạt được “thỏa thuận có ý nghĩa” trong đó xác nhận BĐKH là thách thức lớn nhất của thế giới hiện nay.

Đó là những dấu mốc quan trọng mang tầm thế giới và có ý nghĩa lịch sử trong cuộc đấu tranh chống BĐKH, BVMT và PTBV. Nó chứng tỏ những vấn đề nêu trên đã trở thành công việc quốc tế cơ bản xuyên quốc gia, xuyên khu vực và là vấn đề quan trọng nhất của nhân loại. Hầu hết các nước trên thế giới với các mức độ khác nhau đã cam kết thực hiện những thỏa thận chống BĐKH, đưa ra các chỉ tiêu cụ thể giảm phát thải đi-ô-xít các-bon: thiết lập chương trình quốc gia ứng phó BĐKH.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên cho biết: “Nhận rõ ảnh hưởng của BĐKH, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH. Một trong những nội dung quan trọng của Chương trình là xây dựng và cập nhật kịch bản BĐKH. Đây là định hướng để các Bộ, ngành, địa phương đánh giá tác động của BĐKH, xây dựng và triển khai kế hoạch ứng phó”.

Công nghiệp xây dựng đóng góp phần quan trọng vào việc phát thải CO 2ra không khí gây hiệu ứng nhà kính. “Ở Nhật Bản, lượng CO 2do xây dựng và các ngành liên quan chiếm 45% lượng khí thải toàn quốc” (Hội Xây dựng Nhật Bản), “Tổng tiêu hao năng lượng xây dựng chiếm 28% tổng tiêu hao năng lượng Trung Quốc, đến năm 2020, con số này sẽ là 35% (Hàn Khởi Đức, Phó Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc), “tỉ lệ phát thải đi-ô-xít các-bon liên quan đến công nghiệp xây dựng ở châu Âu là hơn 40%, ở Nhật Bản là 36% và ở Đài Loan là 28%” (Yuh Chyum Ding, Bộ Nội vụ Đài Loan). Còn theo Chương trình Sustainability 2030 của Hội Kiến trúc sư Mỹ (AIA) đưa ra năm 2007: “Các công trình xây dựng chiếm khoảng 48% tiêu thụ năng lượng điện của Mỹ; việc vận hành và bảo trì các công trình xây dựng hiện nay đã sử dụng 76% năng lượng điện của Mỹ”. Và theo phân tích mới nhất của các nhà khoa học thì “nhà cửa là nguồn gốc của một nửa khí nhà kính” và như vậy lĩnh vực xây dựng từ lúc khai thác, chế tạo vật liệu, thiết kế và xây dựng công trình, suốt quá trình vận hành cho đến khi cải tạo, phá dỡ đã góp một nửa vào việc hủy hoại hệ sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên và tạo ra BĐKH (PGS.TS Phạm Đức Nguyên).

Từ những thập niên cuối của thế kỉ 20, thế giới đã phát triển một quan niệm thiết kế gắn kết giữa con người, kiến trúc, thiên nhiên và xã hội và với hiệu quả khả quan của nó đối với con người, môi trường sống, đặc biệt tiết kiệm được năng lượng đáng kể mà sức lan tỏa của nó đã trở thành một trào lưu mới của kiến trúc thế giới đương đại. Đó là KTX hay kiến trúc sinh thái hay kiến trúc bền vững tùy theo khía cạnh được đề cập. Kiến trúc bền vững với tiền đề thiết kế bền vững và xây dựng bền vững sẽ tạo ra kinh tế bền vững, môi trường bền vững, xã hội bền vững và chất lượng sống bền vững của con người.

KTX với các tiêu chí cơ bản là (1) Địa điểm xây dựng; (2) Hiệu quả sử dụng nước; (3) Hiệu quả năng lượng; (4) Vật liệu và tài nguyên; (5) Chất lượng môi trường trong nhà được đánh giá, xác định bởi các công cụ đánh giá quốc gia hoặc quốc tế như Mỹ có LEED, Anh: BREEAM, Canada: GBC, Nhật Bản: CASBEE, Trung Quốc: GOBAS và Việt Nam: LOTUS... nhưng LEED (Hướng dẫn Thiết kế Năng lượng và Môi trường) của Mỹ được sử dụng rộng rãi hơn cả. LEED còn chia ra nhiều hệ thống đánh giá chi tiết: LEED - NC cho công trình xây dựng mới; LEED - EB cho công trình đã có; LEED - CI cho nội thất thương mại; LEED - CS cho nhà cho thuê. Hệ thống LEED đánh giá kiến trúc xanh thông qua cách tính điểm: Tiêu chí cơ bản (TCCB) (1) được 22% tổng số điểm; TCCB (2): 8%; TCCB (3): 27%; TCCB (4): 27% và TCCB (5): 23%. Từ đó nếu đạt 40% tổng số điểm thì được Chứng chỉ cơ bản, 50%: Chứng chỉ Bạc, 60%: Chứng chỉ Vàng hay > 80%: Chứng chỉ Bạch Kim.

Hiệu quả và lợi ích mang lại từ KTX rất rõ rêt: Tại Mỹ 200 tòa nhà đầu tiên được nhận chứng chỉ KTX đã giảm 30% nước cấp và từ 30 - 50% năng lượng; năm 2000 có 1.500 tòa nhà và năm 2006 có 5.000 tòa nhà được cấp chứng chỉ KTX. Tại Ấn Độ, năm 2004 bắt đầu với một KTX khoảng 1858 m 2ở Hyderabad, 4 năm sau, KTX đã có 21.821.500 m 2. Cuối năm 2008, Ấn Độ có 315 KTX, dự đoán năm 2010 có 1.000 KTX với diện tích 93.000.000 m 2, tiết kiệm năng lượng có thể đến 35% và nước đến 40%, tiềm năng vật liệu xây dựng cho KTX có thể đến khoảng 40 tỉ USD.

KTX hướng tới giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người, kiến trúc và thiên nhiên, tổng hòa các yếu tố kinh tế, kỹ thuật, môi trường, văn hóa, xã hội vừa vì con người mà sáng tạo ra một không gian nhỏ dễ chịu vừa bảo vệ môi trường lớn lành mạnh chung quanh. KTX lấy con người làm trung tâm, kết hợp lợi ích của con người trước mắt và lâu dài, thế hệ hiện tại và tương lai, lợi ích của địa phương và xã hội, khu vực và thế giới nên có tính đạo đức và đổi mới rất cao. Tuy có đầu tư ban đầu lớn do phải áp dụng các phương tiện, thiết bị khoa học công nghệ cao và mới nhưng KTX có lợi ích kinh tế lâu dài: tuổi thọ nâng cao, chi phí quản lý và duy tu bảo dưỡng ít, tiết kiệm năng lượng nhiều, đặc biết đối với với nhà ở, số lượng nhiều quy mô lớn thì hiệu quả sẽ rất cao. Dựa vào sự phát triển mới nhất của nhiều kỹ thuật công nghệ kết hợp lại với nhau và áp dụng trong những điều kiện cụ thể của địa phương nên KTX mang tính địa phương trọn vẹn, thể hiện khả năng phát triển do các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tài nguyên... phù hợp với địa phương tạo thành. KTX mang tính địa phương trọn vẹn cũng hàm chứa ý nghĩa rằng các loại hình kiến trúc này phản ánh bản sắc, truyền thống văn hóa, lịch sử của địa phương đó.

KTX mang lại hiệu quả và lợi ích to lớn, nhiều mặt nên chỉ trong một thời gian thập niên, sức lan tỏa của nó đã đạt tới đỉnh cao được xem như là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kiến trúc ở hầu hết các nước phát triển và đang phát triển. Thực ra, KTX không quá xa lạ đối với nước ta, nó có nguồn gốc từ kiến trúc dân gian, truyền thống của các địa phương, dân tộc. Những năm gần đây, GS.TS Phạm Ngọc Đăng, GS.TSKH Nguyễn Mạnh Thu, GS.TS Nguyễn Hữu Dũng, PGS.TS Phạm Đức Nguyên và nhiều kiến trúc sư, nhà nghiên cứu đã có nhiều bài viết giới thiệu về KTX, nhiều bài nêu bật những nguyên tắc thiết kế KTX, giúp cho những người thiết kế kiến trúc nâng cao nhận thức về loại hình kiến trúc mang tính thời đại này và đưa chúng vào trong thực tế công tác thiết kế. Giới kiến trúc vui mừng được biết rằng vấn đề KTX là một trong nhiều vấn đề quan trọng nổi bật được đưa ra bàn thảo tại Đại hội Kiến trúc sư Việt Nam lần thứ VIII tháng 4/2010, trong đó có phát biểu gây ấn tượng của GSTS. KTS Nguyễn Việt Châu: “Kiến trúc sinh thái chắc chắn là câu trả lời duy nhất để tìm lời giải cho xu hướng kiến trúc Việt Nam trong thế kỷ XXI. Chúng ta không thể lạc bước và không thể quá tụt hậu trên con đường chung của kiến trúc thế giới”.

Là một bộ phận lớn của kết cấu thành phố, khối lượng công trình xây dựng vốn rất đồ sộ, hàng năm xây dựng thêm hàng chục triệu m 2các loại công trình sẽ là nguồn tiêu tốn năng lượng không nhỏ, phát thải ít khí CO 2ra không khí, tạo hiệu ứng đảo nhiệt đô thị, gây áp lực nặng lên bầu khí quyển thành phố. Theo Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm năng lượng TPHCM (EEC - HCMC) Huỳnh Kim Tước, TPHCM tiêu thụ 1/3 năng lượng thương mại của cả nước, mỗi ngày dùng hết 40 triệu Kwh, cả năm 365 ngày sẽ tiêu thụ hết 14,6 tỉ Kwh, tính ra tiền là 11.680 tỉ đồng năm (giá 800 đồng/Kwh) và theo GS. TS Nguyễn Hữu Dũng, Đại học Kiến trúc Hà Nội, dầu, khí, than thành phố sử dụng tạo 25% khí CO 2ra không khí. Trong khi đó, diện tích cho không gian xanh thành phố eo hẹp, thường bị các yêu cầu khác lấn át. Theo Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Đô thị và Phát triển hạ tầng (IUSID) Nguyễn Đăng Sơn, diện tích cây xanh trên đầu người trung bình toàn thành phố là 13,74 m 2/người, nội thành là 1,95 m 2/người, ngoại thành là 473,6 m 2/người, phân bổ rất không đồng đều.

Để ứng phó, thích nghi với BĐKH, ngành xây dựng TPHCM chủ trương phát triển các công trình theo hướng KTX. Nhiều hoạt động của thành phố thời gian gần đây đang tích cực thực hiện mục tiêu này. Trong khuôn khổ “Dự án Nghiên cứu Đô thị cực lớn - TPHCM phát triển đô thị thích ứng với BĐKH”, kết hợp với chuyên gia CHLB Đức, Sở xây dựng thành phố cho xuất bản “Sổ tay hướng dẫn thiết kế xây dựng nhà ở TKNL thích ứng với BĐKH”, kết hợp với các đơn vị liên quan như EEC - HCMC, PADDI và chuyên gia Pháp tổ chức các cuộc hội thảo, tập huấn như “Tiêu chuẩn năng lượng trong công trình xanh - Hiện trạng và giải pháp”, “Kiến trúc xanh - Ý tưởng và thực hiện”, “Hỗ trợ chủ công trình nhà nước nằm trong khuôn khổ công trình xanh xây dựng bền vững ứng phó với BĐKH”..., ủng hộ Dự án xây dựng trụ sở làm việc của Sở Khoa học - Công nghệ thành phố theo mô hình KTX. Trong khi đó nhiều công trình xây dựng được thiết kế đã quan tâm đến áp dụng những nguyên tắc hoặc những giải pháp của KTX như sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu chất thải, sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường, hòa hợp với điều kiện khí hậu khu vực, gây ít tác động xấu tới xung quanh (tiếng ồn, xả khói, mùi hôi...), chi phí phát sinh trong vòng đời của tòa nhà thấp, vị trí tòa nhà gần các địa điểm công cộng để giảm thiểu tác động của việc đi lại và đặc biệt phải thân thiện với người sử dụng..., tận dụng chiếu sáng thông gió tự nhiên thông thoáng, lõi sinh thái của tòa nhà, ống dẫn ánh sáng, che nắng, mái xanh, vườn ướt, hồ sinh thái. Bên cạnh đó, thành phố đang ra sức thực hiện Quyết định của thành phố đưa diện tích công viên cây xanh bình quân đầu người lên 6-7 m 2/người, trong năm 2011, sẽ trồng thêm 500.000 m 2cây xanh các loại, thêm 50 hecta cây xanh dọc đại lộ Võ Văn Kiệt, phấn đấu đạt mục tiêu thành phố “Xanh - sạch - đẹp” của Hiệp hội Đô thị thế giới. KTX thành phố đang đi trên những bước vững chắc đầu tiên và gần đây được khích lệ bởi “Tuyên ngôn Kiến Trúc Xanh” do Hội Kiến trúc sư Việt Nam đưa ra chứng tỏ KTX là lựa chọn đúng đắn và đầy triển vọng của TPHCM.

3. Kết hợp giữa hiện đại và bản sắc dân tộc

Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng đang ở trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng và cuộc cách mạng khoa học công nghệ thông tin là một khâu đột phá kết nối các nước trên thế giới trong một cộng đồng quốc tế nhiều mầu sắc trong đó mỗi nước tìm thấy lợi ích và sự khác biệt của mình cùng với phần còn lại của nhân loại. Trong Bối cảnh chung đó và trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã có cơ hội tìm hiểu và tiếp xúc với nhiều trường phái và lý luận kiến trúc vốn rất xa lạ như Hiện đại Mới, Hậu Hiện đại, Chủ nghĩa Công năng, Chủ nghĩa Giải tỏa kết cấu, Kỹ thuật cao, Cộng sinh, Phỏng sinh học, Kiến trúc Sinh khí hậu, Kiến trúc sinh thái, Kiến trúc thông minh... và các thứ: Chủ nghĩa Ẩn dụ, Ký hiệu học, Kiến trúc học hành vi, Hình thái học kiến trúc... Trong sự phong phú đa dạng của nhiều trường phái và lý luận kiến trúc hiện nay trên thế giới, trong môi trường hợp tác giao lưu rộng mở, giới kiến trúc nước ta đã tiếp cận với nhiều nền kiến trúc tiên tiến, phong cách thiết kế kiến trúc hiện đại, kỹ thuật, công nghệ và vật liệu xây dựng mới, tiên tiến, đã học tập được nhiều điều và đứng trước nhiều lựa chọn.

Kiến trúc hiện đại là kiến trúc thể hiện được những đặc điểm chung của thời đại, được thiết kế bởi những kiến trúc sư có tư duy mới mẻ, hiện đại, phù hợp với xu thế chung của thế giới, nắm bắt được những thành tựu khoa học công nghệ trong ngành, sử dụng những phương pháp, công cụ và tiêu chuẩn thiết kế tiên tiến, vật liệu, trang thiết bị, tiện nghi mới mẻ, các giải pháp và thiết bị thi công xây lắp tiên tiến. Kiến trúc hiện đại sẽ có vai trò tích cực nếu được nằm trong một đô thị hoặc khu phố được thiết kế với tính hiện đại thể hiện trong quy hoạch mặt bằng tổng thể, tổ chức không gian, hệ thống kỹ thuật hạ tầng cũng như các mạng lưới phục vụ dân sinh khác. Kiến trúc hiện đại ngày nay chính là kiến trúc được thiết kế theo tiêu chuẩn KTX như đã được trình này ở phần trên.

Đi theo hướng “hiện đại” là phù hợp với xu thế chung của thế giới, nhưng “hiện đại” ở Việt Nam nên như thế nào là điều mà không ít các thế hệ kiến trúc sư Việt Nam giàu tâm huyết trăn trở, suy tư và không ít giấy mực đã dành cho vấn đề hệ trọng này của kiến trúc nước nhà. Vốn thừa hưởng một bề dày văn hóa của cha ông, vốn có một bản lĩnh vững vàng trước những thách thức và được một sự dẫn dắt đúng đắn, giới kiến trúc Việt Nam, mặc dù có thể còn có vấn đề để bàn cãi, nhưng đang chọn cho mình một hướng đi phù hợp, vừa hòa nhịp với trào lưu của thế giới, vừa kế thừa và phát huy những tinh hoa quý báu của dân tộc. Kết hợp giữa hiện đại và bản sắc dân tộc là một vấn đề lớn nhưng xem ra có thể thống nhất về mặt lý thuyết, còn về mặt thực tiễn thể hiện ra như thế nào thì vẫn còn là một bài toàn hóc búa đang chờ lời giải. Kenzo Tange, kiến trúc sư Nhật Bản nổi tiếng thế giới cho rằng “Không ai ấu trĩ đến độ đem một mái nhà kiểu cổ úp lên một công trình kiến trúc hình hộp rồi bảo đó là sự kết hợp dân tộc - hiện đại”.

Trong quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế, giới kiến trúc nước nhà cũng đã biết đến ảnh hưởng nguy hại của thứ kiến trúc nhất thể hóa hay quốc tế hóa với những công trình rập khuôn hoặc na ná giống nhau, đơn điệu, vô hồn. KTS Pháp Christian Pedelahore De Loddis trong bài “Sự trở lại của đô thị Việt Nam: Giữa tính quốc tế và sự khủng hoảng về bản sắc” đã nhận xét về kiến trúc TPHCM “trăm hoa đua nở” với nhiều xu hướng khác nhau là kết quả của xu thế hội nhập như sau: “Tình trạng sao chép nguyên xi những mô hình kiến trúc của các nước lân cận chủ yếu là Thái Lan và Hồng Kông được thực hiện ở TPHCM. Những hình thức kiến trúc quá tầm thường và quá quen thuộc đã dễ dàng được coi là “hiện đại” và kéo theo là sự đoạn tuyệt với giá trị truyền thống là vấn đề phải đặt ra trước việc mở cửa cho một nền kinh tế thị trường”. Mặc dù đó là những nhận xét, cách đây đã trên 15 năm, nhưng chúng vẫn còn nguyên giá trị và mang tính chất thời sự. Kiến trúc TPCM hiện đã khác trước nhiều, bên cạnh những công trình “ngoại” là những tác phẩm “nội” như Kho bạc Nhà nước, Tòa thánh Truyền hình TPHCM... với phong cách hiện đại, mới mẻ.

Hiện đại và dân tộc kết hợp hài hòa trong công trình kiến trúc làm nên sự thành công của công trình kiến trúc đó và hiện kiến trúc không ít nước trên thế giới đã đi theo hướng này. Vấn đề mà họ tìm kiếm là làm thế nào để thể hiện cái hồn, cái tinh hoa của kiến trúc truyền thống trong một công trình kiến trúc hiện đại và sự thành công của họ ngày hôm nay sẽ trở thành quá khứ truyền thống của ngày hôm sau. Về vấn đề này, KTS Hoàng Đạo Kính có ý kiến xác đáng như sau: “Những thành công nhất của Kenzo Tange và Aalto chính là ở chỗ họ đã lồng vào các tác phẩm của mình cái tinh thần văn hóa dân tộc, cái “quintesencia” (tinh hoa) thông qua sự tiêu hóa nhuần nhuyễn trong bản thân mình những gì là cốt lõi, không thể tách rời muôn thủa khỏi con người Nhật, con người Phần Lan. Bản sắc không bao giờ có được nếu kiến trúc sư chỉ biết làm cái việc biến tấu ngôi nhà cổ truyền với các góc đao, cho dù chúng có đặc trưng thế nào đi nữa, cho dù việc này có hấp dẫn thế nào đi chăng nữa”.

Tuy nhiên, việc kết hợp giữa hiện đại và dân tộc không hề dễ dàng. Ở đây cần có một quá trình chuyển hóa, đổi mới, học tập, nâng cao cả về mặt tổ chức và con người và quá trình này không phải là việc ngày một ngày hai. Trong phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm ngày Kiến trúc Việt Nam27/4/2011, KTS Nguyễn Tấn Vạn, Chủ tích Hội Kiến trúc sư Việt Nam nhận xét rằng “Nhìn diện mạo kiến trúc nước nhà hiện nay không khó nhận ra rằng, chúng ta xây dựng nhiều nhưng ít thành công về sáng tạo nghệ thuật. Kiến trúc chung chung mờ nhạt, thiếu bản sắc, tính hiện đại không triệt để, còn một khoảng cách khá xa với trình độ quốc tế”.

4. Bản sắc Sài Gòn - Nam Bộ

Là một sản phẩm vật chất, NOCT là nơi đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người. Đó là các không gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, không gian làm việc, sản xuất nhỏ hoặc hoạt động khác và không gian giải trí, giao tiếp cộng đồng, tiếp xúc thiên nhiên. Trong thiết kế kiến trúc NOCT, ngoài những vấn đề sử dụng, bền vững, kinh tế, mỹ quan, nhiều vấn đề thuộc phạm vi tâm lý, xã hội, y tế, an ninh... cũng đặt ra những yêu cầu cần được quan tâm xử lý thích hợp. NOCT còn là một sản phẩm văn hóa, là mái ấm giữa những người thân yêu, là nơi chung vui hạnh phúc, chia sẻ buồn đau, nơi nâng cao giá trị tâm hồn, nuôi dưỡng tình thân ái, gắn bó với thiên nhiên, cộng đồng, nơi đem lại lòng thiết tha vui sống... Những vấn đề như vậy cũng là đối tượng nghiên cứu giải quyết của thiết kế kiến trúc NOCT để những người dân ở đây không có cảm giác rằng họ đang sống trong tòa nhà thiết kế chỉ đáp ứng những yêu cầu sống cơ bản, mà là một không gian có tâm hồn, một “tổ ấm văn hóa” thật sự với những không gian chung, nửa chung - nửa riêng và hoàn toàn riêng hòa hợp và lành mạnh, trong những không gian đó những nét đặc trưng văn hóa được thể hiện nhuần nhị, phù hợp với tính cách, lối sống, phong tục tập quán của họ.

Là một sản phẩm văn hóa của TPHCM, NOCT phải thể hiện được sắc thái địa phương Sài Gòn, Nam Bộ vốn hình thành trong quá trình hơn 300 năm, từ khai hoang, lấn biển đến đào kênh, lập ấp, xây dựng những vùng, miền, thành phố... để rồi có những Chợ Lớn, Gia Định, Sài Gòn, “hòn ngọc Viễn Đông” rực rỡ ngày xưa và TPHCM ngời sáng hôm nay. Đất trời sông nước Phương Nam với những con người đôn hậu, kiên trung, phóng khoáng, thân thiện đã làm nên một Nam Bộ giàu truyền thống lịch sử và văn hóa với những trang vàng cách mạng, chống ngoại xâm, với kho tàng văn hóa nghệ thuật và các điệu hò câu lý, vọng cổ, đờn ca tài tử, “dạ cổ hoài lang”... thấm đẫm chất dân gian và giàu có tính nhân văn. Chính mảnh đất lạch sông chằng chịt, vườn tược cây trái xum xuê, ruộng đồng cò bay thẳng cánh này với truyền thống lịch sử và văn hóa của mình là quê hương, là nguồn cội của những làng Việt Nam Bộ, những ngôi nhà miệt vườn, những nhà dân gian đơn sơ mộc mạc, hầu như tất cả đều nằm bên những con sông hay kênh rạch, quay hướng nam hoặc đông nam đầy gió và ánh sáng tự nhhiên, nhà nào cũng có sân hoặc vườn cây cối xanh um; vật liệu làm nhà chủ yếu lấy từ địa phương, cấu trúc nhà và kỹ thuật thi công đơn giản; tuy vậy cũng có nhiều kiểu nhà rường được làm công phu, tỉ mỉ với trình độ kỹ thuật và thẩm mĩ cao, nhiều nhà riêng, biệt thự, đình chùa, nhà thờ, nhà lưu niệm, bia mộ.... được thiết kế xây dựng đồ sộ, trang nghiêm, hình khối thanh thoát, nhẹ nhàng với nhiều vật liệu và họa tiết trang trí đẹp đẽ phong phú thể hiện sắc thái kiến trúc vùng sông nước nhiệt đới phương Nam và nét văn hóa truyền thống của các tôn giáo và sắc tộc khác nhau. Hầu như có một đặc điểm chung cho các loại kiến trúc ở đây dù là dân dã hay cao cấp, tạm thời hay lâu dài, Phật giáo hay Công giáo, Tin Lành, Cao Đài Việt, Chăm hay Khơ Me, Hoa là đều hòa cùng với thiên nhiên, được thiên nhiên bao bọc, che chở, dựa vào các đặc tính của khí hậu, đất đai, công nước, nắng gió, cỏ cây hoa trái từng vùng, miền để tạo ra một ngôi nhà, một không gian sống thông thoáng, trong lành, ấm áp, yên bình, phù hợp với tính cách cởi mở, hào hiệp, lối sống giản dị phóng khoáng, phong tục tập quán... của người dân vùng sông nước đầy nắng gió và đầy nghĩa tình.

Có lẽ, đó chính là nét đặc trưng văn hóa nói chung, kiến trúc nói riêng của địa phương Nam Bộ cần nghiên cứu, khai thác trong tổ chức không gian NOCT TPHCM.

Văn hóa Việt Nam là một vấn đề lớn được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và đưa ra những luận điểm và nhận định phong phú. Tuy nhiên, hầu như mọi người đều thống nhất rằng văn hóa là sản phẩm của con người, được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội.

Văn hóa và kiến trúc có mối quan hệ khăng khít nhân quả, cùng tương tác và cùng phát triển. Akhtar Chauhan, một học giả Trung Đông đã cho rằng: “Văn hóa trong ý nghĩa rộng rãi nhất của nó bao gồm bản chất của mọi khía cạnh cố gắng của con người. Sự nhận thức này, sự khôn ngoan, sự hiểu biết trong một vài lĩnh vực, chẳng hạn tâm lý học, xã hội học, kinh tế học, nhân loại học, khoa học môi trường, nghiên cứu về nơi ở, kiến trúc, kỹ thuật, luật học, chính trị học... được tổng hợp trong một lối sống được phản ánh trong văn hóa. Như vậy, chính văn hóa đã hình thành kiến trúc. Trong suốt các thời kỳ khác nhau của sự tiến hóa, kiến trúc đã ghi lại tác động và các ảnh hưởng của văn hóa vào thời gian, địa điểm của kiến trúc, và như vậy, kiến trúc cung cấp cho chúng ta nguồn tham khảo to lớn về văn hóa của các xã hội và dân tộc khác nhau”. Akhtar Chauhan cũng cho rằng: “Miễn là kiến trúc vẫn là một hoạt động của loài người không thay đổi, nó không thể không chịu ảnh hưởng bởi văn hóa của các xã hội loài người. Văn hóa đang phát triển một cách tự nhiên, trong quá trình tiến hóa của mình, nó tạo nguồn cảm hứng cho kiến trúc để kiến trúc phát triển đến trình độ biểu hiện và tổng hợp sáng tạo cao hơn”.

ở một khía cạnh khác, trong cuốn sách chuyên khảo nổi tiếng “House Form and Culture” (Hình thức ngôi nhà và Văn hóa), Amos Rapoport, nhà khoa học Mỹ hàng đầu nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn hóa và kiến trúc đã chứng minh rằng “chính văn hóa là yếu tố quan trọng nhất trong việc định hình và xác định những nguyên tắc hình thức trong kiến trúc nhà dân gian, trong khi các yếu tố khác như địa điểm, khí hậu, vật liệu, thổ nhưỡng, kỹ thuật truyền thống, kinh tế... chỉ có vai trò bổ trợ, có tác động nhưng không làm thay đổi bản chất hình thức tổ chức của ngôi nhà”.

Như vậy, văn hóa là cội nguồn của kiến trúc. Chính văn hóa với những tinh hoa được chắt lọc qua nhiều thế hệ trở nên truyền thống của dân tộc, của địa phương, của cộng đồng đã là nền tảng làm nên bản sắc của kiến trúc và về phần mình, một kiến trúc tốt có bản sắc phản ánh những giá trị của văn hóa, làm giàu có, phong phú thêm nền văn hóa đó. Để là một sản phẩm kiến trúc tốt có bản sắc, bên cạnh phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, trình độ văn hóa tinh thần của người dân, về mặt thiết kế cấu trúc, tổ chức mặt bằng, xử lý mặt đứng, sắp xếp không gian, sử dụng vật liệu, trang thiết bị kỹ thuật, trang trí nội ngoại thất, mặt nước, cây xanh... kiến trúc NOCT TPHCM phải đáp ứng yêu cầu của người dân về mặt sử dụng vật chất và hưởng thụ tinh thần trong căn hộ, ngôi nhà, khu ở của mình và thể hiện cho được những nét đặc trưng truyền thống của văn hóa, kiến trúc Sài Gòn, Nam Bộ thông qua tiếp thu và kế thừa những tinh hoa truyền thống quý báu đó như đã nói ở phần trên. Cần nhấn mạnh là “kế thừa” chứ không phải “bê nguyên xi” hay mô phỏng hoặc sao chép những hình thức, kiểu dáng, cấu kiện, vật liệu... của kiến trúc truyền thống đưa vào trong kiến trúc ngày nay một cách ngây ngô, sống sượng mà từ chỗ kết hợp hài hòa giữa khoa học thiết kế kiến trúc hiện đại, vật liệu và kỹ thuật công nghệ xây dựng tiên tiến với năng lực biểu hiện nhuần nhuyễn những nét đặc trưng truyền thống mà người kiến trúc sư tích lũy cảm nhận được trong quá trình học tập và hành nghề.

5. Kết luận

Kiến trúc nhà ở TPHCM trong đó có NCOT đi theo hướng KTX, kết hợp hiện đại và truyền thống là hướng đi đúng đắn. Với hướng đi này, NOCT có thể thực hiện sự gắn kết giữa con người - kiến trúc - thiên nhiên và xã hội, có lợi ích về kinh tế, môi trường, đặc biệt là TKNL, giảm phát thải khí nhà kính, hạn chế hiệu ứng đảo nhiệt đô thị, ứng phó BĐKH, bắt nhịp với bước tiến của thời đại, đồng thời phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc, của thành phố. Hướng đi này cũng tạo cơ sở vững chắc cho việc khai thác các đặc trưng văn hóa truyền thống trong tổ chức không gian NOCT qua các “cách thực hành ứng xử bằng kiến trúc một cách khôn ngoan, có kiến thức, thông minh, sáng tạo, thích hợp với khí hậu, thiên nhiên, công nghệ hiện đại và con người bản xứ” (PGSTS. Phạm Đức Nguyên). Và chắc chắn rằng hướng đi này sẽ đáp ứng tốt mong mỏi của người dân thành phố được sống trong một khu ở, tòa nhà, căn hộ được thiết kế xanh, hiện đại và giàu bản sắc như KTS Nguyễn Tấn Vạn, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam phát biểu trong lễ kỷ niệm Ngày Kiến trúc Việt Nam 27/4/2011: “... không ngừng phấn đấu trong lao động sáng tạo, trong hoạt động nghề nghiệp để đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, góp phần “Xây dựng nền Văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc” và nền kiến trúc Việt Nam: Xanh - Hiện đại và Bản sắc trong thế kỷ XXI”.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.