Phát triển mô hình nuôi cá lóc trên bể lót bạc
Bài viết “Làng nghề làm khô cá lóc An Giang thiếu nguyên liệu” đăng trên trang Web Người Việt dùng hàng Việt (ngày 17/11/2010): Khô cá lóc Chợ Mới từ lâu đã trở thành đặc sản nổi tiếng của An Giang. Không những mang lại nguồn kinh tế lớn cho địa phương mà còn ổn định nguồn thu nhập chính cho nhiều lao động tại chỗ. Định hướng xây dựng vùng nguyên liệu hiện tại tuy không thể giải quyết tức thời khó khăn của các cơ sở làm nghề nhưng chắc chắn là điều cần thiết và cũng là giải pháp tích cực để duy trì và ổn định hiệu quả sản xuất cho làng nghề truyền thống nơi đây.
Trong tình hình nuôi cá tra xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ đã chuyển hướng đầu tư sang nuôi các loại cá khác, tiêu thụ nội địa để đảm bảo lợi nhuận. Nuôi các loại thuỷ sản khác, nhất là trong những tháng mùa nước nổi hiện được xem như là phương tiện cứu cánh cho hộ nghèo. Với chi phí đầu tư thấp lợi nhuận cao nên đang có xu hướng phát triển. Phong trào nuôi cá lóc tại An Giang bắt đầu phát triển từ những năm 1990: Hộ nuôi sử dụng con giống vớt ngoài tự nhiên chuyển dần sang giống sinh sản nhân tạo và quy mô nuôi được cải tiến dần phù hợp với xu thế phát triển ngành thủy sản thời hội nhập. Năng suất nuôi cũng được cải thiện dần dần: Năng suất trung bình 18—20kg/m 2(nuôi vèo, bể) và 200 – 300 tấn/ha đối với hộ nuôi ao. Theo số liệu thống kê của tỉnh (1/11/2010), diện tích nuôi trong tỉnh 67ha (chiếm 26,2%/ tổng diện tích nuôi thủy sản). Sản lượng thu hoạch 22.273 tấn (tăng 146,14% so với năm 2009).
Khác với cá tra, quy mô và các hình thức nuôi cá lóc rất đa dạng: Từ vài m 2đến vài ngàn m 2và hình thức nuôi phổ biến hiện nay bao gồm nuôi ao, nuôi lồng và nuôi vèo; nuôi trong bể lót bạt … Thức ăn sử dụng chủ yếu là cá tạp. Tuy nhiên trong những năm gần đây, phong trào đang có xu hướng phát triển theo hình thức nuôi mới : Nuôi trong bể lót bạt sử dụng thức ăn công nghiệp. Đây là mô hình nuôi có hiệu quả kinh tế cao và có nhiều ưu điểm do không đòi hỏi diện tích nuôi lớn, dễ đầu tư, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Phong trào nuôi càng ngày càng phát triển, nguồn cá tạp nước ngọt không đủ đáp ứng cho các mô hình nuôi nên hộ nuôi đã vận dụng nguồn cá tạp biển làm thức ăn cho cá. Ứng dụng công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp, một số Công ty sản xuất thức ăn đã sản xuất thử nghiệm thức ăn công nghiệp dành cá lóc phục vụ các vùng nuôi cá lóc trên cả nước trong đó có Cty AFIEX. Đây là một bước chuyển mình mới trong việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cho nghề nuôi thủy sản, không chỉ giúp cho các hộ nuôi trong vùng chuyên canh chủ động nguồn thức ăn, cải thiện thu nhập mà còn hạn chế việc khai thác bừa bãi các loài cá tạp vào mùa lũ.
Nhằm giới thiệu và hướng dẫn cho nông dân trong tỉnh thực hiện mô hình nuôi cá lóc trên bể bạt, từ tháng 7 – 12/2010, Trung tâm Giống thủy sản An Giang phối hợp với Khoa Thủy sản – Đại học Cân Thơ, Công ty Afiex, đã thực hiện dự án “Triển khai mô hình nuôi cá lóc trên bể lót bạt tại An Giang” tại các huyện Thoại Sơn, Long Xuyên, Phú Tân, An Phú, Tri Tôn và Tịnh Biên. Dự án đã triển khai tại vùng nuôi tập trung của địa phương thông qua các buổi tập huấn kỹ thuật và hướng dẫn thực hiện mô hình điểm. Nông dân trong vùng dự án rất phấn khởi khi được tiếp cận công nghệ nuôi mới. Với thời gian nuôi 4 tháng, năng suất nuôi cá lóc trên bể 18-30kg/m 2. Riêng năng suất nuôi tại huyện Tịnh Biên và An Phú: 30-50 kg/m 2. Mô hình tại hộ nuôi Phan Quốc Khánh (tự Năm Phát), xã Vĩnh Trung, huyệnTịnh Biên, đạt năng suất 50,66kg/m 2và hộ Nguyễn Văn Sal, xã Quốc Thái, huyện An Phú, cũng đạt được năng suất trên.
Hầu hết nông dân trong vùng dự án đều phấn khởi. Hiện nay tại huyện Thoại Sơn, Long Xuyên và Tịnh Biên đang tiếp tục nhân rộng mô hình nuôi này. Với quy mô nuôi nhỏ, những hộ nuôi ít vốn tận dụng diện tích quanh nhà, xây dựng bể nuôi nhằm cải thiện thu nhập cho gia đình và khắc phục được một số nhược điểm của các mô hình nuôi khác. Lợi nhuận từ mô hình này từ 1- 6 triệu tùy thuộc vào kỹ năng chăm sóc - quản lý và kinh nghiệm của hộ nuôi. So với công nghệ nuôi cá lóc truyền thống, công nghệ nuôi bằng thức ăn viên giúp cho các hộ nuôi từ miền núi đến đồng bằng chủ động được nguồn thức ăn, tiết kiệm lượng nước thay, hạn chế ô nhiễm môi trường công cộng (có thể sử dụng lượng nước thay để tưới rau màu, lúa…) và đặc biệt vẫn giữ hương vị thịt cá.
Phát triển mô hình cá lóc trên diện rộng không chỉ đa dạng hóa các đối tượng nuôi thủy sản còn tạo điều kiện cho các hộ nuôi cá tra (diện tích nhỏ) tiếp tục nuôi thủy sản. Việc định hướng xây dựng vùng nguyên liệu cung cấp nguồn cá hàng hóa cho các cơ sở sản xuất mắm và làng nghề khô cá lóc là giải pháp tích cực để duy trì và ổn định hiệu quả sản xuất cho các làng nghề. Trong thời gian tới cần quy hoạch vùng nuôi chuyên canh nuôi cá lóc trong tỉnh, có kế hoạch tổ chức liên kết người nuôi và các cơ sở sản xuất khô - mắm để hộ nuôi thả giống đúng thời vụ, sản xuất gắn với tiêu thụ. Khuyến cáo hộ nuôi ứng dụng quy trình nuôi thủy sản theo tiêu chuẩn chất lượng nhằm cung cấp cá hàng hóa “sạch” phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa, công nghiệp chế biến khô, mắm trong và ngoài tỉnh.








