Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 13/01/2012 18:44 (GMT+7)

Phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.

Vấn đề đặt ra hiện nay là cần nhận thức đầy đủ hơn vai trò, vị trí của nông nghiệp và tìm ra giải pháp để tiếp tục phát triển nông nghiệp một cách bền vững và hiệu quả. Nhiều năm nay, một trong những trăn trở là tìm ra được những hình thức tổ chức thích hợp để đảm bảo sự ổn định trong sản xuất, phù hợp với tiến trình CNH, HĐh nông nghiệp – nông thôn, nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế với mục tiêu cuối cùng là tăng thu nhập và cải thiện đời sống của mọi tầng lớp nông dân. Cùng với các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp truyền thống như kinh tế, kinh tế hợp tác, doanh nghiệp nhà nước mà lâu nay được đổi mới, cải tiến thì kinh tế trang trại (KTTT) cũng là một hình thức được quan tâm nghiên cứu và mở rộng ở các vùng, những địa bàn thích hợp.

1. Phát triển KTTT – xu thế khách quan cho một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa

Trên thế giới, KTTT có lịch sử phát triển lâu đời. Theo các chuyên gia về sử học và kinh tế học thế giới thì các trang trại đã hình thành từ thời đế quốc La Mã, trong đó, lực lượng sản xuất chủ yếu là các nô lệ. Ở Trung Quốc , trang trại có từ thời nhà Đường. trang trại trên thế giới bắt đầu phát triển mạnh khi chế độ TBCN ra đời. Năm !802 ở Pháp có 5.672.000 trang trại, năm 1882 ở Tây Đức có 5.276.000 trang trại, năm 2990 ở Mỹ có 5.737.000 trang trại, Thái lan năm 1963 có 2.314.000 trang trại, Ấn Độ có hơn 44 triều trang trại… Cùng với quá trình phát triển công nghiệp, số lượng các trang trại giảm, nhưng quy mô về diện tích và doanh thu tăng lên. Hiện nay ở Mỹ có 2,2 triệu trang trại, sản xuất mỗi năm 50% sản lượng đậu tương và ngô trên thế giới; ở pháp có 980.000 trang trại, sản xuất một lượng nông sản gấp 2,2 lần nhu cầu trong nước; 1.500 trang trại của Hà Lan mỗi năm sản xuất 7 tỷ bông hoa, 600 triệu chậu hoa; lao động trong các trang trại của Nhật Bản khoảng 4 triệu người (chiếm 3,7% dân số cả nước) nhưng bảo đảm lương thực, thực phẩm cho hơn 100 triệu người. Như vậy, trang trại là một mô hình tổ chức sản xuất phổ biến trong nông nghiệp, xu thế tất yếu của sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Thực tiễn thế giới cũng cho thấy, các nước quan tâm phát triển trang trại gai đình với quy mô thích hợp, trú trọng hiệu quả kinh tế. Hiện nay ở Mỹ, KTTT gia đ ình chiếm 65% diện tích đất, 70% giá trị nông sản mỗi năm, quy mô trang trại của Thái lan là 4,5 ha, Ấn Độ 2 ha, Đài Loan 1,5 ha… nhưng hiệu quả kinh tế rất cao (2).

Ở nước ta, trang trại đã hình thành và phát triển dưới thời nhà Trần với tên gọi chung là các “thái ấp”. Tuy nhiên, trong thời phong kiến, chỉ những người có nhiều ruộng đất như địa chủ, quan lại mới có thái ấp, còn nông dân nghèo hoặc là chỉ có ruộng đất đủ nuôi sống bản thân đướ hình thức kinh tế nông hộ nhỏ hoặc đi làm thuê. Thời Pháp thuộc, trang trại dưới tên gọi đồn điền cũng chỉ có trong tay nhà giầu hoặc quan lại người Pháp và người Việt , số lượng không đáng kể.Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồn điền của người Pháp và Việt bị tịch thu và được biến thành các nông trường quốc doanh. Số nông trường ngày một tăng cả về lượng và quy mô đến mức năm 1960 phải thành lập Bộ Nông trường để quản lý. Chỉ sau thời kỳ đổi mới năm 1986, thực hiện cơ chế coi hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh thì trang trại mới được thừa nhận và khuyến khích phát triển. Chủ trương đối với KTTT đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của BCH TƯ Đảng khóa VIII tháng 12/1997 và Nghị quyết số 06 ngày 10/11/1998 của Bộ chính trị về phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó đề cập một số vấn đề về quan điểm và chính sách nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ KTTT trong thời gian tới. Ngày 02/02/2000, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP về KTTT, tạo cơ sở pháp lý và cơ chế chính sách để khuyến khích phát triển KTTT nên đã xuất hiện ngày càng nhiều mô hình trang trại mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, tận dụng tốt diện tích đất đai và mặt nước, góp phần tích cực vào hội nhập kinh tế của đất nước.

Sở dĩ KTTT có động lực phát triển là do những ưu thế sau đây:

Một là,KTTT có quy mô lớn hơn kinh tế hộ gia đình truyền thống nên những người có đầu óc kinh doanh mới có ý chí và say mê phát triển trang trại, từ đó họ phải tính toán chi ly thiệt hơn từ chuyển đổi ruộng đất, vay vốn, đầu tư khoa học- công nghệ, tìm thị trường đầu vào và đầu ra… để kinh doanh có hiệu quả. Tất nhiên, mọi sự khởi đầu bao giờ cũng suôn sẻ, có lúc phải chịu thua thiệt nhưng qua đó rút kinh nghiệm để tiếp tục phát triển hiệu quả hơn.

Hai là, việc sản xuất ra nhiều nông sản không chỉ là mục đích duy nhất của trang trại, mà các trang trại phát triển con góp phần tạo ra sự thịnh vượng đối với sự tiến bộ toàn diện trong cuộc sống nông thôn, như tạo ra sự đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh tại địa phương, góp phần phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội (đường sá, nhà ở, thủy lợi, giáo dục, y tế, văn hóa…) làm cho đời sống ở nông thôn từng bước được cải thiện.

Ba là, KTTT góp phần tổ chức lại lao động ở nông thôn theo sự phân công lao động hợp lý. Những người có đầu óc kinh doanh, có tiềm lực lớn về kinh tế và khoa học – công nghệ sẽ đảm đương nhiệm vụ quản lý dù họ là ông chủ trang trại, còn những người ít ruộng đất, sản xuất tự cung tự cấp có thể tham gia hợp tác với trang trại, trở thành thành viên thường xuyên hoặc thời vụ và họ có điều kiện chuyên môn hóa trong lao động sản xuất, từ đó mà lao động của họ đỡ vất vả hơn, thu nhập ổn định và nâng cao.

Bốn là,KTTT có tác động nhất định đối với sự phất triển kinh tế ở các khu vực, địa phương cũng như cuộc sống và sự thịnh vượng của khu vực nông thôn ven các đô thị, tại các khu vực chậm phát triển sẽ là cơ hooihj để cải thiện và nâng cao mức sống cho dân nghèo, tiền đề để CNH, HĐH tại các khu vực đó.

Năm là, KTTT bền vững hơn so với hộ gia đình thuần túy. Các nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn khẳng định rằng, trang trại có khả năng sinh lợi và hiệu quả hơn, đóng góp nhiều hơn trong phát triển kinh tế so với kinh tế hộ gia đình, đồng thời các trang trại có khả năng quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn tính đa dạng sinh học và đảm bảo tính ổn định của sản xuất tốt hơn so với người nông dân cá thể.

Sáu là, KTTT góp phần phát triển kinh tế- xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, đảm bảo an ninh quốc phòng. Khu vực đồi núi, biên giới, hải đảo (đây là những khu vực trọng yếu, có vai trò rất lớn trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ nguồn nước cho các con sông và hệ thống thủy điện, thủy lợi) thường là những khu vực rất giàu tiềm năng đất đai nhưng lại kém phát triển, người dân nghèo khó, thiếu việc làm. Nếu trang trại được phát triển tốt ở vùng này với những chính sách phù hợp thì trật tự an ninh biên giới được tăng cường và đảm bảo.

Sáu ưu thế của KTTT được nêu trên đây chỉ mới nặng về lý thuyết, có biến thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào cơ chế, chính sách của Nhà nước và trình độ năng lực của những người hoạt động KTTT.

2. Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta             

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến giữa năm 2009, cả nước có khoảng 150.102 trang trại, bình quân mỗi tỉnh có 2.382 trang trại, chủ yếu tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam bộ, Nam Trung bộ và Đồng bằng sông Hồng. Từ năm 2000 đến năm 2009, mỗi năm tăng thêm khoảng 8.600 trang trại. Ở những địa phương có nhiều quỹ đất nông, lâm nghiệp và diện tích mặt nước chưa sử dụng, hay vùng kinh tế năng động, thì KTTTphát triển nhanh.

Đến năm 2009, có 47,2% trang trại trồng trọt nông nghiệp; 26,1% trang trại nuôi trồng thủy sản; 13,3% trang trại chăn nuôi; 0,7% trang trại lâm nghiệp và 9,7% trang trại sản xuất – kinh doanh tổng hợp. Các loại hình trang trại trên có xu hướng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng và Nam Trung bộ đã chuyển hàng ngàn ha lúa sang nuôi trồng thủy sản. Ở những vùng sản xuất nguyên liệu gắn với khu công nghiệp chế biến, như mía đường, dứa… thì trang trại trồng trọt nông nghiệp vẫn ổn định và phát triển. Trong 5 năm (2005 – 2009), tốc độ tăng trưởng bình quân của KTTT là 13,8%. Năm 2007, tổng vốn sản xuất của hệ thống trang trại đạt 29.320,1 tỉ đồng, vốn sản xuất bình quân của một trang trại là 257,8 triệu đồng. Nhiều trang trại ở các tỉnh phía Nam như Lâm Đồng , Bình Phước,, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu có quy mô vốn bình quân hơn 500 triệu đồng. Lợi nhuận bình quân từ KTTT đạt gần 120 triệu đồng/ trang trại, cao gấp 15 lần so với lợi nhuận bình quân của nông hộ. Giá trị sản phẩm hàng hóa của các trang trại cao hơn mức bình quân chung của cả nước từ 7 – 10%. Tỷ lệ hàng hóa của nhiều trang trại đạt hơn 90% như cà phê, cao su… Một số trang trại đã kết hợp sản xuất và chế biến, nên đạt hiệu quả kinh tế cao (3). Điều đó cho thấy, KTTT có sức lan tỏa khá mạnh, được sự hưởng ứng của nhiều nông dân có kiến thức và tiềm lực kinh tế, năng lực kinh doanh, nhất là trong điều kiện chuyển sang phát triển nền nông nghiệp hàng hóa. Điều này cũng phù hợp với thực tế phát triển trang trại của thế giới: chỉ khi kinh tế TBCN phát triển, có nghĩa là kinh tế thị trường mở rộng thì KTTT của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ phát triển mạnh cả về tốc độ và quy mô. Cũng do xu thế khách quan của KTTT và lợi ích của nó mang lại cho nền nông nghiệp hàng hóa nên Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách để khuyến khích phát triển trang trại.

Thực tế qua hơn 10 năm phát triển KTTT ở nước ta cho thấy, tuy số lượng trang trại tăng lên khá nhanh nhưng chất lượng, hiệu quả của KTTT còn nhiều khó khăn, hạn chế:

Ở một số địa phương phát triển KTTT mang tính tự phát, không có và không theo quy hoạch. Vẫn con những trang trại giống như vườn tạp, chỉ là mô hình VAC hoặc VAC cải tiến;

Nhu cầu sử dụng, tích tụ đất cho trang trại tăng cao nhưng việc giao đất, cho thuê đất, đấu thầu đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại thực hiện chậm, thời hạn thuê, đấu thầu đất còn ngắn và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dẫn đến các chủ trang trại chưa yên tâm đầu tư vào sản xuất;

Chất lượng sản phẩm chưa cao, sản phẩm bán ra chủ yếu dưới dạng thô hoặc tươi sống, chưa qua chế biến, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đảm bảo nên giá bán thấp, sức cạnh tranh yếu;

Nhiều trang trại thiếu vốn đầu tư, chưa đủ sức đầu tư theo chiều sâu, đầu tư không đồng bộ. Nhiều tổ chức tín dụng, ngân hàng chưa thực sự quan tâm, đánh giá đúng mức thị trường cho vay phát triển KTTT, chưa tạo điều kiện cho các trang trại đầu tư phát triển lâu dài;

Chi phí sản xuất của trang trại tăng nhanh do giá vật tư nông nghiệp đầu vào tăng mạnh nên hiệu quả sản xuất – kinh doanh thấp, bị thua lỗ. Mặt khác do thời tiết khí hậu bất thường, dịch bệnh cây trồng, vật nuôi liên tục xảy ra, làm nhiều trang trại bị thiệt hại và gặp nhiều khó khăn;

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề lớn đối với các trang trại, nhất là những trang trại chăn nuôi, thủy sản năm gần khu dân cư do chất thải chưa được sử lý, gây khó khăn cho việc phòng chống dịch bệnh cho người và gia súc, gia cầm..;

Trình độ đa số các chủ trang trại còn thấp, việc điều hành, tổ chức sản xuất – kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Lao động làm việc trong trang trại chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo nghề nên rất khó khăn trong việc áp dụng khoa học – kỹ thuật, quản lý vào sản xuất – kinh doanh, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả làm ăn;

Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ trang trại với chính quyền địa phương trong việc bảo vệ sản xuất và tài sản của trang trại;

Chính sách phát triển KTTT còn nhiều bất cập cả về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện, các trang trại còn khó khăn và thiếu thông tin trong việc tiếp cận các chính sách. Phần lớn các chủ trang trại chưa được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước về đầu tư tài chính, tín dụng cho trang trại.

3.Một số định hướng giải pháp phát triển KTTT ở nước ta trong thời gian tới

Con đường phát triển đất nước ta trong thời gian tới vẫn là đẩy mạnh CNH, HĐH để biến nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong khoảng 10 năm nữa, trong đó CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vẫn là một hướng quan trọng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X cũng đề ra: “Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát triển các môi kiên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng gia trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hóa lớn” (4). Văn kiện đại hội XI của Đảng đã nêu: “Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng” (5). Như vây, phát triển KTTT là một chủ trương lớn và phù hợp của Đảng và Nhà nước ta.

Để KTTT phát triển bền vững, hiệu quả, theo chúng tôi cần một số định hướng giải pháp lớn sau đây:

Một là,về quan điểm và nhận thức, phải xem KTTT là một trong các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp đối với nông nghiệp nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Quan điểm này phù hợp với 5 quan điểm phát triển kinh tế của Đảng vừa được thông qua tại Đại hội XI: “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (6). Trong quan hệ sản xuất đối với nông nghiệp hiện nay ở nước ta, tùy theo trình độ của lực lượng sản xuất mà có các hình thức tổ chức sản xuất đa dạng, bao gồm kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân và một bộ phận kinh tế nhà nước trong nông nghiệp, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có KTTT với lực lượng sản xuất tương đối cao hơn so với kinh tế hộ nông dân cá thể. Các hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất này không loại trừ nhau mà có sự liên kết, hợp tác cùng có lợi và chính KTTT cũng ngày càng mở rộng hợp tác giữa các trang trại với nhau và với các hình thức tổ chức sản xuất khác để kinh doanh thích ứng với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Ở đây cần khắc phục tư duy “làm chủ - làm thuê”, “bóc lột và bị bóc lột” mà phải trên tư duy hợp tác cùng có lợi.

Hai là, tạo môi trường thuận lợi để phát triển KTTT, bao gồm, môi trường chính trị, kinh tế, pháp luật, tâm lý…

Về chính trị, cần tạo cho mọi người nhận thức được phát triển KTTT là một hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, từ đó tạo môi trường tâm lý thuận lợi ủng hộ làm giàu chính đáng, tránh tâm lý kỳ thị, định kiến với người có tư duy và biết làm ăn lớn. Về môi trường kinh tế, vấn đề quan trọng nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo giá đầu vào và đầu ra của trang trại ít bị xáo trộn, tạo thuận lợi cho chủ trang trại được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Về môi trường pháp luật, quan trọng nhất là bổ sung và sửa đổi Luật Đất đai, đảm bảo cho chủ trang trại được tích tụ ruộng đất với giới hạn thích hợp, nhanh chóng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài để họ an tâm đầu tư sản xuất – kinh doanh.

Ba là,tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế, chính sách đối với KTTT theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000, bao gồm một số chính sách lâu dài của Nhà nước đối với KTTT như chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách đầu tư, tín dụng, chính sách khoa học – công nghệ, môi trường, chính sách thị trường, chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại. Tuy nhiên , các chính sách này đề ra từ đầu năm 2000, tới nay qua hơn mười năm tình hình đã có nhiều biến đổi nhưng tinh thần của chính sách vẫn là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại kinh doanh ổn định, thuận lợi và có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.

Bốn là, hỗ trợ các trang trại để giải quyết một số khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường bằng cách hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và bồi dưỡng kiến thức sản xuất – kinh doanh cho các chủ trang trại, hỗ trợ vốn thông qua chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ nâng cấp xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, điện, thủy lợi, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, khuyến khích các chủ trang trại phát triển kinh tế tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa xuất khẩu, trong đó có những khoản hỗ trợ nằm trong chính sách đã nêu đặc biệt hỗ trợ về khoa học – công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa và hỗ trợ đào tạo ,bồi dưỡng các nhà quản lý trang trại và người lao động.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với KTTT, đảm bảo cho KTTT phát triển đúng hướng, đúng pháp luật và đạt hiệu quả cao. Trong kiểm tra, kiểm soát phải đặc biệt lưu ý tới tư cách pháp nhân của chủ trang trại, đảm bảo người kinh doanh trang trại phải thực sự là người hoạt động kinh doanh về nông nghiệp, ngăn ngừa những quan chức lợi dụng chính sách KTTT để chiếm đất, mở trang trại, thuê nhân công và người quản lý để thu lợi kiểu “địa chủ”trước đây, gây nghi ngờ chủ trương phát triển KTTT của Đảng và Nhà nước, gây bức xúc trong dư luận xã họi. Ngoài ra cần kiểm tra, kiểm soát việc khai phá đất rừng để làm trang trại, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái./.

(1)ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy BCH TƯ khóa X, Nxb CTQG, HN.2008, tr.122.

(2)www.vacvina.org.vn/.../kinhtetrangtrai/.../365.html

(3)Báo Quân đội nhân dânngày 18/06/2009.

(4)ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy BCH TƯ khóa X, Nxb CTQG, HN . 2008, tr.136-137

(5)ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, HN. 2011, tr.114.

(6)ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ XI,NXB CTQG, HN. 2011, tr. 30-31.

Xem Thêm

Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

LHH Bình Định và Gia Lai trao đổi kinh nghiệm, hướng tới mô hình tổ chức phù hợp sau sáp nhập
Ngày 28/5, tại TP Pleiku đã diễn ra buổi làm việc và trao đổi kinh nghiệm giữa Liên hiệp các Hội KH&KT (LHH) tỉnh Bình Định và LHH tỉnh Gia Lai. Buổi làm việc do ông Lê Văn Tâm – Phó Chủ tịch Thường trực LHH Bình Định và ông Nguyễn Danh – Chủ tịch LHH Gia Lai đồng chủ trì.
Nâng cao nhận thức và năng lực ứng dụng AI trong truyền thông, báo chí
Ngày 29-5, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Chương trình tập huấn với chủ đề “Trí tuệ nhân tạo (AI) – Ứng dụng trong báo chí hiện đại”. Học viên tham dự tập huấn là các phóng viên, biên tập viên thuộc các cơ quan báo chí của các Tổ chức KH&CN, Hội ngành toàn quốc trong hệ thống.
Quảng Ngãi: Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Thực hiện Chương trình phối hợp công tác năm 2025, Liên hiệp hội tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Quảng Bình: Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính - công vụ - xã hội
Ngày 28/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Quảng Bình tổ chức Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính- công vụ - xã hội cho 100 học viên là cán bộ, công chức, viên chức một số sở ngành, cơ quan Liên hiệp Hội và hội viên của các Hội thành viên.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng chúc mừng Liên hiệp hội Hà Tĩnh nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập
Sáng 26/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Tĩnh (Liên hiệp hội) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (27/5/1995-27/5/2025). Dự lễ kỷ niệm có Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân, đại diện các tỉnh bạn, các sở ngành tại địa phương và lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Liên hiệp hội qua các thời kỳ.
Phát động hưởng ứng Ngày phòng chống tác hại của thuốc lá tại Phú Yên
Sáng qua 28/5, tại Trường đại học Phú Yên, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh phối hợp với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tổ chức lễ phát động hưởng ứng các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá vì sức khỏe người tiêu dùng với thông điệp: “Phòng chống tác hại của thuốc lá bảo vệ thế hệ tương lai”, “Vì sức khỏe người tiêu dùng hãy nói không với thuốc lá”.
Anh nông dân lớp 5 và hành trình tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật
Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng và sáng tạo để nâng cao năng suất và giảm chi phí lao động, một người nông dân tại Châu Phú, An Giang - dù chỉ học hết lớp 5 - đã chứng minh rằng: Tri thức không chỉ đến từ sách vở mà còn từ thực tiễn cần mẫn và khối óc sáng tạo không ngừng.
Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.