Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 13/01/2012 18:44 (GMT+7)

Phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.

Vấn đề đặt ra hiện nay là cần nhận thức đầy đủ hơn vai trò, vị trí của nông nghiệp và tìm ra giải pháp để tiếp tục phát triển nông nghiệp một cách bền vững và hiệu quả. Nhiều năm nay, một trong những trăn trở là tìm ra được những hình thức tổ chức thích hợp để đảm bảo sự ổn định trong sản xuất, phù hợp với tiến trình CNH, HĐh nông nghiệp – nông thôn, nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế với mục tiêu cuối cùng là tăng thu nhập và cải thiện đời sống của mọi tầng lớp nông dân. Cùng với các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp truyền thống như kinh tế, kinh tế hợp tác, doanh nghiệp nhà nước mà lâu nay được đổi mới, cải tiến thì kinh tế trang trại (KTTT) cũng là một hình thức được quan tâm nghiên cứu và mở rộng ở các vùng, những địa bàn thích hợp.

1. Phát triển KTTT – xu thế khách quan cho một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa

Trên thế giới, KTTT có lịch sử phát triển lâu đời. Theo các chuyên gia về sử học và kinh tế học thế giới thì các trang trại đã hình thành từ thời đế quốc La Mã, trong đó, lực lượng sản xuất chủ yếu là các nô lệ. Ở Trung Quốc , trang trại có từ thời nhà Đường. trang trại trên thế giới bắt đầu phát triển mạnh khi chế độ TBCN ra đời. Năm !802 ở Pháp có 5.672.000 trang trại, năm 1882 ở Tây Đức có 5.276.000 trang trại, năm 2990 ở Mỹ có 5.737.000 trang trại, Thái lan năm 1963 có 2.314.000 trang trại, Ấn Độ có hơn 44 triều trang trại… Cùng với quá trình phát triển công nghiệp, số lượng các trang trại giảm, nhưng quy mô về diện tích và doanh thu tăng lên. Hiện nay ở Mỹ có 2,2 triệu trang trại, sản xuất mỗi năm 50% sản lượng đậu tương và ngô trên thế giới; ở pháp có 980.000 trang trại, sản xuất một lượng nông sản gấp 2,2 lần nhu cầu trong nước; 1.500 trang trại của Hà Lan mỗi năm sản xuất 7 tỷ bông hoa, 600 triệu chậu hoa; lao động trong các trang trại của Nhật Bản khoảng 4 triệu người (chiếm 3,7% dân số cả nước) nhưng bảo đảm lương thực, thực phẩm cho hơn 100 triệu người. Như vậy, trang trại là một mô hình tổ chức sản xuất phổ biến trong nông nghiệp, xu thế tất yếu của sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Thực tiễn thế giới cũng cho thấy, các nước quan tâm phát triển trang trại gai đình với quy mô thích hợp, trú trọng hiệu quả kinh tế. Hiện nay ở Mỹ, KTTT gia đ ình chiếm 65% diện tích đất, 70% giá trị nông sản mỗi năm, quy mô trang trại của Thái lan là 4,5 ha, Ấn Độ 2 ha, Đài Loan 1,5 ha… nhưng hiệu quả kinh tế rất cao (2).

Ở nước ta, trang trại đã hình thành và phát triển dưới thời nhà Trần với tên gọi chung là các “thái ấp”. Tuy nhiên, trong thời phong kiến, chỉ những người có nhiều ruộng đất như địa chủ, quan lại mới có thái ấp, còn nông dân nghèo hoặc là chỉ có ruộng đất đủ nuôi sống bản thân đướ hình thức kinh tế nông hộ nhỏ hoặc đi làm thuê. Thời Pháp thuộc, trang trại dưới tên gọi đồn điền cũng chỉ có trong tay nhà giầu hoặc quan lại người Pháp và người Việt , số lượng không đáng kể.Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồn điền của người Pháp và Việt bị tịch thu và được biến thành các nông trường quốc doanh. Số nông trường ngày một tăng cả về lượng và quy mô đến mức năm 1960 phải thành lập Bộ Nông trường để quản lý. Chỉ sau thời kỳ đổi mới năm 1986, thực hiện cơ chế coi hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh thì trang trại mới được thừa nhận và khuyến khích phát triển. Chủ trương đối với KTTT đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của BCH TƯ Đảng khóa VIII tháng 12/1997 và Nghị quyết số 06 ngày 10/11/1998 của Bộ chính trị về phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó đề cập một số vấn đề về quan điểm và chính sách nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ KTTT trong thời gian tới. Ngày 02/02/2000, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP về KTTT, tạo cơ sở pháp lý và cơ chế chính sách để khuyến khích phát triển KTTT nên đã xuất hiện ngày càng nhiều mô hình trang trại mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, tận dụng tốt diện tích đất đai và mặt nước, góp phần tích cực vào hội nhập kinh tế của đất nước.

Sở dĩ KTTT có động lực phát triển là do những ưu thế sau đây:

Một là,KTTT có quy mô lớn hơn kinh tế hộ gia đình truyền thống nên những người có đầu óc kinh doanh mới có ý chí và say mê phát triển trang trại, từ đó họ phải tính toán chi ly thiệt hơn từ chuyển đổi ruộng đất, vay vốn, đầu tư khoa học- công nghệ, tìm thị trường đầu vào và đầu ra… để kinh doanh có hiệu quả. Tất nhiên, mọi sự khởi đầu bao giờ cũng suôn sẻ, có lúc phải chịu thua thiệt nhưng qua đó rút kinh nghiệm để tiếp tục phát triển hiệu quả hơn.

Hai là, việc sản xuất ra nhiều nông sản không chỉ là mục đích duy nhất của trang trại, mà các trang trại phát triển con góp phần tạo ra sự thịnh vượng đối với sự tiến bộ toàn diện trong cuộc sống nông thôn, như tạo ra sự đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh tại địa phương, góp phần phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội (đường sá, nhà ở, thủy lợi, giáo dục, y tế, văn hóa…) làm cho đời sống ở nông thôn từng bước được cải thiện.

Ba là, KTTT góp phần tổ chức lại lao động ở nông thôn theo sự phân công lao động hợp lý. Những người có đầu óc kinh doanh, có tiềm lực lớn về kinh tế và khoa học – công nghệ sẽ đảm đương nhiệm vụ quản lý dù họ là ông chủ trang trại, còn những người ít ruộng đất, sản xuất tự cung tự cấp có thể tham gia hợp tác với trang trại, trở thành thành viên thường xuyên hoặc thời vụ và họ có điều kiện chuyên môn hóa trong lao động sản xuất, từ đó mà lao động của họ đỡ vất vả hơn, thu nhập ổn định và nâng cao.

Bốn là,KTTT có tác động nhất định đối với sự phất triển kinh tế ở các khu vực, địa phương cũng như cuộc sống và sự thịnh vượng của khu vực nông thôn ven các đô thị, tại các khu vực chậm phát triển sẽ là cơ hooihj để cải thiện và nâng cao mức sống cho dân nghèo, tiền đề để CNH, HĐH tại các khu vực đó.

Năm là, KTTT bền vững hơn so với hộ gia đình thuần túy. Các nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn khẳng định rằng, trang trại có khả năng sinh lợi và hiệu quả hơn, đóng góp nhiều hơn trong phát triển kinh tế so với kinh tế hộ gia đình, đồng thời các trang trại có khả năng quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn tính đa dạng sinh học và đảm bảo tính ổn định của sản xuất tốt hơn so với người nông dân cá thể.

Sáu là, KTTT góp phần phát triển kinh tế- xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, đảm bảo an ninh quốc phòng. Khu vực đồi núi, biên giới, hải đảo (đây là những khu vực trọng yếu, có vai trò rất lớn trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ nguồn nước cho các con sông và hệ thống thủy điện, thủy lợi) thường là những khu vực rất giàu tiềm năng đất đai nhưng lại kém phát triển, người dân nghèo khó, thiếu việc làm. Nếu trang trại được phát triển tốt ở vùng này với những chính sách phù hợp thì trật tự an ninh biên giới được tăng cường và đảm bảo.

Sáu ưu thế của KTTT được nêu trên đây chỉ mới nặng về lý thuyết, có biến thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào cơ chế, chính sách của Nhà nước và trình độ năng lực của những người hoạt động KTTT.

2. Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta             

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến giữa năm 2009, cả nước có khoảng 150.102 trang trại, bình quân mỗi tỉnh có 2.382 trang trại, chủ yếu tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam bộ, Nam Trung bộ và Đồng bằng sông Hồng. Từ năm 2000 đến năm 2009, mỗi năm tăng thêm khoảng 8.600 trang trại. Ở những địa phương có nhiều quỹ đất nông, lâm nghiệp và diện tích mặt nước chưa sử dụng, hay vùng kinh tế năng động, thì KTTTphát triển nhanh.

Đến năm 2009, có 47,2% trang trại trồng trọt nông nghiệp; 26,1% trang trại nuôi trồng thủy sản; 13,3% trang trại chăn nuôi; 0,7% trang trại lâm nghiệp và 9,7% trang trại sản xuất – kinh doanh tổng hợp. Các loại hình trang trại trên có xu hướng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng và Nam Trung bộ đã chuyển hàng ngàn ha lúa sang nuôi trồng thủy sản. Ở những vùng sản xuất nguyên liệu gắn với khu công nghiệp chế biến, như mía đường, dứa… thì trang trại trồng trọt nông nghiệp vẫn ổn định và phát triển. Trong 5 năm (2005 – 2009), tốc độ tăng trưởng bình quân của KTTT là 13,8%. Năm 2007, tổng vốn sản xuất của hệ thống trang trại đạt 29.320,1 tỉ đồng, vốn sản xuất bình quân của một trang trại là 257,8 triệu đồng. Nhiều trang trại ở các tỉnh phía Nam như Lâm Đồng , Bình Phước,, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu có quy mô vốn bình quân hơn 500 triệu đồng. Lợi nhuận bình quân từ KTTT đạt gần 120 triệu đồng/ trang trại, cao gấp 15 lần so với lợi nhuận bình quân của nông hộ. Giá trị sản phẩm hàng hóa của các trang trại cao hơn mức bình quân chung của cả nước từ 7 – 10%. Tỷ lệ hàng hóa của nhiều trang trại đạt hơn 90% như cà phê, cao su… Một số trang trại đã kết hợp sản xuất và chế biến, nên đạt hiệu quả kinh tế cao (3). Điều đó cho thấy, KTTT có sức lan tỏa khá mạnh, được sự hưởng ứng của nhiều nông dân có kiến thức và tiềm lực kinh tế, năng lực kinh doanh, nhất là trong điều kiện chuyển sang phát triển nền nông nghiệp hàng hóa. Điều này cũng phù hợp với thực tế phát triển trang trại của thế giới: chỉ khi kinh tế TBCN phát triển, có nghĩa là kinh tế thị trường mở rộng thì KTTT của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ phát triển mạnh cả về tốc độ và quy mô. Cũng do xu thế khách quan của KTTT và lợi ích của nó mang lại cho nền nông nghiệp hàng hóa nên Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách để khuyến khích phát triển trang trại.

Thực tế qua hơn 10 năm phát triển KTTT ở nước ta cho thấy, tuy số lượng trang trại tăng lên khá nhanh nhưng chất lượng, hiệu quả của KTTT còn nhiều khó khăn, hạn chế:

Ở một số địa phương phát triển KTTT mang tính tự phát, không có và không theo quy hoạch. Vẫn con những trang trại giống như vườn tạp, chỉ là mô hình VAC hoặc VAC cải tiến;

Nhu cầu sử dụng, tích tụ đất cho trang trại tăng cao nhưng việc giao đất, cho thuê đất, đấu thầu đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại thực hiện chậm, thời hạn thuê, đấu thầu đất còn ngắn và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dẫn đến các chủ trang trại chưa yên tâm đầu tư vào sản xuất;

Chất lượng sản phẩm chưa cao, sản phẩm bán ra chủ yếu dưới dạng thô hoặc tươi sống, chưa qua chế biến, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đảm bảo nên giá bán thấp, sức cạnh tranh yếu;

Nhiều trang trại thiếu vốn đầu tư, chưa đủ sức đầu tư theo chiều sâu, đầu tư không đồng bộ. Nhiều tổ chức tín dụng, ngân hàng chưa thực sự quan tâm, đánh giá đúng mức thị trường cho vay phát triển KTTT, chưa tạo điều kiện cho các trang trại đầu tư phát triển lâu dài;

Chi phí sản xuất của trang trại tăng nhanh do giá vật tư nông nghiệp đầu vào tăng mạnh nên hiệu quả sản xuất – kinh doanh thấp, bị thua lỗ. Mặt khác do thời tiết khí hậu bất thường, dịch bệnh cây trồng, vật nuôi liên tục xảy ra, làm nhiều trang trại bị thiệt hại và gặp nhiều khó khăn;

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề lớn đối với các trang trại, nhất là những trang trại chăn nuôi, thủy sản năm gần khu dân cư do chất thải chưa được sử lý, gây khó khăn cho việc phòng chống dịch bệnh cho người và gia súc, gia cầm..;

Trình độ đa số các chủ trang trại còn thấp, việc điều hành, tổ chức sản xuất – kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Lao động làm việc trong trang trại chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo nghề nên rất khó khăn trong việc áp dụng khoa học – kỹ thuật, quản lý vào sản xuất – kinh doanh, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả làm ăn;

Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ trang trại với chính quyền địa phương trong việc bảo vệ sản xuất và tài sản của trang trại;

Chính sách phát triển KTTT còn nhiều bất cập cả về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện, các trang trại còn khó khăn và thiếu thông tin trong việc tiếp cận các chính sách. Phần lớn các chủ trang trại chưa được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước về đầu tư tài chính, tín dụng cho trang trại.

3.Một số định hướng giải pháp phát triển KTTT ở nước ta trong thời gian tới

Con đường phát triển đất nước ta trong thời gian tới vẫn là đẩy mạnh CNH, HĐH để biến nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong khoảng 10 năm nữa, trong đó CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vẫn là một hướng quan trọng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X cũng đề ra: “Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát triển các môi kiên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng gia trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hóa lớn” (4). Văn kiện đại hội XI của Đảng đã nêu: “Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng” (5). Như vây, phát triển KTTT là một chủ trương lớn và phù hợp của Đảng và Nhà nước ta.

Để KTTT phát triển bền vững, hiệu quả, theo chúng tôi cần một số định hướng giải pháp lớn sau đây:

Một là,về quan điểm và nhận thức, phải xem KTTT là một trong các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp đối với nông nghiệp nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Quan điểm này phù hợp với 5 quan điểm phát triển kinh tế của Đảng vừa được thông qua tại Đại hội XI: “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (6). Trong quan hệ sản xuất đối với nông nghiệp hiện nay ở nước ta, tùy theo trình độ của lực lượng sản xuất mà có các hình thức tổ chức sản xuất đa dạng, bao gồm kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân và một bộ phận kinh tế nhà nước trong nông nghiệp, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có KTTT với lực lượng sản xuất tương đối cao hơn so với kinh tế hộ nông dân cá thể. Các hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất này không loại trừ nhau mà có sự liên kết, hợp tác cùng có lợi và chính KTTT cũng ngày càng mở rộng hợp tác giữa các trang trại với nhau và với các hình thức tổ chức sản xuất khác để kinh doanh thích ứng với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Ở đây cần khắc phục tư duy “làm chủ - làm thuê”, “bóc lột và bị bóc lột” mà phải trên tư duy hợp tác cùng có lợi.

Hai là, tạo môi trường thuận lợi để phát triển KTTT, bao gồm, môi trường chính trị, kinh tế, pháp luật, tâm lý…

Về chính trị, cần tạo cho mọi người nhận thức được phát triển KTTT là một hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, từ đó tạo môi trường tâm lý thuận lợi ủng hộ làm giàu chính đáng, tránh tâm lý kỳ thị, định kiến với người có tư duy và biết làm ăn lớn. Về môi trường kinh tế, vấn đề quan trọng nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo giá đầu vào và đầu ra của trang trại ít bị xáo trộn, tạo thuận lợi cho chủ trang trại được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Về môi trường pháp luật, quan trọng nhất là bổ sung và sửa đổi Luật Đất đai, đảm bảo cho chủ trang trại được tích tụ ruộng đất với giới hạn thích hợp, nhanh chóng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài để họ an tâm đầu tư sản xuất – kinh doanh.

Ba là,tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế, chính sách đối với KTTT theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000, bao gồm một số chính sách lâu dài của Nhà nước đối với KTTT như chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách đầu tư, tín dụng, chính sách khoa học – công nghệ, môi trường, chính sách thị trường, chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại. Tuy nhiên , các chính sách này đề ra từ đầu năm 2000, tới nay qua hơn mười năm tình hình đã có nhiều biến đổi nhưng tinh thần của chính sách vẫn là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại kinh doanh ổn định, thuận lợi và có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.

Bốn là, hỗ trợ các trang trại để giải quyết một số khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường bằng cách hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và bồi dưỡng kiến thức sản xuất – kinh doanh cho các chủ trang trại, hỗ trợ vốn thông qua chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ nâng cấp xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, điện, thủy lợi, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, khuyến khích các chủ trang trại phát triển kinh tế tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa xuất khẩu, trong đó có những khoản hỗ trợ nằm trong chính sách đã nêu đặc biệt hỗ trợ về khoa học – công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa và hỗ trợ đào tạo ,bồi dưỡng các nhà quản lý trang trại và người lao động.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với KTTT, đảm bảo cho KTTT phát triển đúng hướng, đúng pháp luật và đạt hiệu quả cao. Trong kiểm tra, kiểm soát phải đặc biệt lưu ý tới tư cách pháp nhân của chủ trang trại, đảm bảo người kinh doanh trang trại phải thực sự là người hoạt động kinh doanh về nông nghiệp, ngăn ngừa những quan chức lợi dụng chính sách KTTT để chiếm đất, mở trang trại, thuê nhân công và người quản lý để thu lợi kiểu “địa chủ”trước đây, gây nghi ngờ chủ trương phát triển KTTT của Đảng và Nhà nước, gây bức xúc trong dư luận xã họi. Ngoài ra cần kiểm tra, kiểm soát việc khai phá đất rừng để làm trang trại, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái./.

(1)ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy BCH TƯ khóa X, Nxb CTQG, HN.2008, tr.122.

(2)www.vacvina.org.vn/.../kinhtetrangtrai/.../365.html

(3)Báo Quân đội nhân dânngày 18/06/2009.

(4)ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy BCH TƯ khóa X, Nxb CTQG, HN . 2008, tr.136-137

(5)ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, HN. 2011, tr.114.

(6)ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ XI,NXB CTQG, HN. 2011, tr. 30-31.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.