Phát triển kinh tế biển trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Kinh tế biển trong chiến lược biển của một số nước trên thế giới
Trên bề mặt hành tinh biển cả và đại dương rộng 361 triệu km 2(chiếm 29% diện tích), trong khi phần lục địa chỉ có 149 triệu km 2. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và trước sức ép của sự gia tăng dân số, con người đang đứng trước giới hạn chật chội về không gian lãnh thổ và sự cạn kiệt dần về tài nguyên. Bởi vì, nhu cầu giải quyết thức ăn, nước uống, nguyên liệu, một cạn kiệt. Trước tình hình đó, tiến mạnh ra biển để khai thác và sử dụng tài nguyên biển phục vụ cho quốc kế dân sinh không chỉ là vấn đề trọng đại có ý nghĩa sống còn đối với các quốc gia có biển mà còn đối với cả nhân loại.
Lịch sử cho thấy, ngay từ thời “Xuân thu chiến quốc”, Quản Trọng đã từng đề xưóng tư tưởng: nhà nước phải độc quyền buôn bán muối và tư tưởng chiến lược về kinh tế biển đã được manh nha hình thành qua thuyết “Duy quan vi khả nhi”, nghĩa là nếu biết khai thác núi biển thì giàu mạnh. Song phải đến thế kỷ XVII, XVIII người ta mới nhận thức được vai trò chiến lược của kinh tế biển một cách đầy đủ, rõ nét hơn. Hàng loạt nước khởi đầu con đường tư bản chủ nghĩa lúc bấy giờ như Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... đều ra sức xây dựng những đội tàu buôn và hạm đội hải quân để tranh giành nhau quyền bá chủ trên biển, thực hiện tư tưởng của bá tước Uôn Loi “Ai khống chế biển, người ấy khống chế buôn bán, ai khống chế buôn bán thế giới, người ấy khống chế của cải thế giới”.
Ngày nay, phát triển kinh tế biển được xem là một bộ phận trong chiến lược biển của nhiều nước, gắn liền với các chính sách bảo vệ và mở rộng việc khẳng định chủ quyền trên biển. Vì vậy, các học giả Trung Quốc đã viết “Biển là lối thoát của dân tộc Trung Hoa để sinh tồn và phát triển”. Họ khẳng định “Thế kỷ tới là thế kỷ tranh giành biển cả”. Trong những thập kỷ gần đây, ý đồ vươn ra biển của Trung Quốc ngày càng bộc lộ rõ thông qua việc gắn khai thác nguồn lợi biển với chiến lược phòng vệ biển, đặc biệt là hiện đại hoá lực lượng hải quân. Không chỉ Trung Quốc mà hầu hết các nước có biển xung quanh ta cũng đều đưa ra chiến lược biển nhằm khai thác tối đa nguồn lợi biển và kiểm soát, mở rộng vai trò của mình ra các vùng biển thế giới. Điều đó đã làm cho chiến lược biển mang cả ý nghĩa kinh tế lẫn quốc phòng.
Để kinh tế biển nước ta trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
Là một quốc gia nằm bên bờ tây biển Đông, một trong 6 biển lớn thế giới, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển. Với tổng chiều dài bờ biển hơn 3.260 km, trung bình cứ 100 km2 đất liền thì có 1 km bờ biển trong khi tỷ lệ này trên thế giới là 600 km2/ 1km. Hơn nữa, vùng biển nước ta rộng lớn, riêng vùng thềm lục địa rộng hơn 1 triệu km2 (gấp 3 lần diện tích đất liền). Vùng biển nước ta chứa đựng rất nhiều nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng như than, thiếc, sa khoáng, cát thuỷ tinh, đặc biệt là trữ lượng dầu khí lớn với khoảng 4 tỉ m3 dầu qui đổi. Biển nước ta cũng là nơi trú ngụ của hàng nghìn loài cá, hàng trăm loài rong biển. Dọc biển có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ tạo dựng với đất liền thành đầm, vũng, vịnh, các bãi triều và rừng ngập mặn... rất thuận lợi cho nuôi trồng hải sản. Đồng thời đây cũng là nơi có nhiều bãi biển đẹp để phát triển du lịch, xây dựng các cảng nước sâu...
Tuy nhiên, do kinh tế biển của ta chưa phát triển nên tài nguyên vùng biển còn bị khai thác bừa bãi và chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Chẳng hạn, việc đánh bắt hải sản mới chỉ tập trung ở ven bờ, có độ sâu 30 m nước là chủ yếu. Các dịch vụ, chế biến của ngành hải sản chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động của tàu thuyền khai thác vùng biển khơi. Xét về yếu tố lao động thì vùng ven biển nước ta là địa bàn cư trú của hơn 30% dân số cả nước song số lao động thực tế làm nghề biển còn chiếm tỷ lệ thấp, chỉ khoảng trên dưới 15% tổng số lao động. Vùng biển còn thường xuyên bị phía nước ngoài xâm phạm, thậm chí có năm lên đến hơn triệu tấn, nhiều hơn cả số hải sản ta đánh bắt được. Chính vì vậy, đẩy mạnh phát triển hài hoà giữa các ngành kinh tế, góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân vùng ven biển, hải đảo đồng thời cũng tạo ra các tiền đề cần thiết để tăng cường quốc phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược vốn nhạy cảm của đất nước ta.
Để kinh tế biển trở thành mũi nhọn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, cần tăng cường quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò quan trọng của biển cũng như những định hướng phát triển kinh tế biển vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm với những ngành có lợi thế so sánh để nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế... Trước mắt, cần tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển, nhất là các ngành mũi nhọn như vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển, đảo... Đồng thời cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, từ việc xây dựng cơ sở luật pháp, đào tạo nguồn nhân lực đến huy động vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ, hợp tác quốc tế cũng như xây dựng những cơ chế phù hợp nhằm phát huy vai trò của các lực lượng kinh tế và quốc phòng trong việc khai thác có hiệu quả các nguồn lợi kinh tế biển phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển theo tinh thần Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá X) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.








