Phát triển đô thị và những giải pháp trong giai đoạn mới
1. Vài nét về vấn đề phải triển đô thị trong thời gian qua
Trong Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1998, vai trò của các đô thị được xác định là những động lực phát triển chính trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, thực hiện mục tiêu phát triển đất nước cơ bản thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Mạng lưới đô thị quốc gia đã phát triển, mở rộng từ 629 đô thị năm 1999, đến nay, tăng lên tới 754 đô thị. Về dân cư đô thị, tỉ lệ đô thị hoá đã tăng từ 20,7% năm 1999, đến nay, đạt gần 30% (nếu tính dân số nội thị). Mức độ đô thị hoá ở khu vực các đô thị nhỏ diễn ra khá mạnh, lan toả trên diện rộng và phân bố đồng đều hơn trên phạm vi cả nước. Tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị trung bình đạt từ 12-15%, cao gấp 1,5 đến 2 lần so với mặt bằng chung của cả nước. Hiện nay, nguồn thu đô thị, nhất là của các thành phố lớn chiếm tỉ lệ 70% trong cơ cấu GDP cả nước. Tại một số đô thị lớn, GDP bình quân đầu người đạt hơn 1.500 USD/năm như Hà Nội, Nha Trang... Sự phát triển kinh tế đô thị đã và đang tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển chung của xã hội.
Kiến trúc và cảnh quan đô thị đã được các chính quyền đô thị quan tâm với sự xuất hiện ngày càng nhiều các quần thể kiến trúc, mảng đô thị hiện đại, ứng dụng công nghệ thiết kế, xây dựng tiên tiến của thế giới. Tại nhiều đô thị đã và đang xuất hiện các công trình kiến trúc cao tầng là những điểm nhấn kiến trúc đô thị có chất lượng cao. Đi đôi với việc đầu tư xây dựng các khu đô thị mới hiện đại, đồng bộ thì công tác cải tạo, chỉnh trang đô thị và bảo tồn các giá trị di sản kiến trúc đô thị đã được coi trọng, góp phần duy trì và tạo dựng bản sắc của từng đô thị.
Chất lượng cuộc sống người dân đô thị đang từng bước được cải thiện thông qua sự đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng tại các đô thị. Năm 1999, diện tích nhà ở bình quân đầu người đạt 6 m 2, đến nay, đã tăng gấp đôi đạt 12 m 2. Mô hình đầu tư phát triển các khu đô thị mới đồng bộ đã được nghiên cứu nhân rộng tại nhiều địa phương trong cả nước, sử dụng có hiệu quả quỹ đất dành cho phát triển đô thị, đồng thời, từng bước giải quyết nhu cầu rất lớn của xã hội về nhà ở. Hệ thống công trình hạ tầng kĩ thuật và xã hội đô thị như hệ thống giao thông, cấp nước, thoát nước, chiếu sáng, cây xanh, thu gom, xử lý chất thải rắn và công trình phúc lợi công cộng của các đô thị được đầu tư xây dựng, cải tạo và phát triển khá nhanh, tạo nên bộ khung cơ bản để các đô thị phát triển.
Về cấp nước sạch, thời điểm năm 1999, Việt Nam vẫn còn hơn 70% số dân đô thị sử dụng nước không bảo đảm vệ sinh, đến nay, bình quân trên cả nước 73% số dân đô thị đã được cấp nước sạch. Chất lượng phục vụ của giao thông công cộng tại các đô thị, các vùng cũng như trên cả nước ngày càng tốt hơn. Kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được cải thiện thể hiện trên các mặt: nhiều con đường mới được xây dựng, chất lượng đường đô thị dần tốt hơn, các đô thị loại III trở lên đã có hầu hết các tuyến đường chính được rải nhựa, nâng cấp và được xây dựng tương đối đồng bộ với hệ thống thoát nước, hè đường, chiếu sáng và cây xanh. Các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ…, đang triển khai nhiều dự án về giao thông đô thị, cụ thể là cải tạo, nâng cấp và xây mới các trục giao thông đối ngoại, cửa ô, trục giao thông hướng tâm, các nút giao cắt đường vành đai, bước đầu nâng cao năng lực lưu thông tại các đô thị này. Giao thông công cộng đã hình thành và phát triển tại nhiều đô thị. Tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đang triển khai xây dựng tuyến giao thông vận tải khối lượng lớn như tàu điện ngầm, xe buýt nhanh (BRT).
Vấn đề cải thiện điều kiện môi trường đô thị cũng đã được chính quyền đô thị quan tâm. Một số đô thị đã đầu tư xây dựng nhà máy hoặc trạm xử lý nước thải và bước đầu hoạt động khá tốt. Tỉ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt bình quân cả nước đạt khoảng 80%. Hiện nay, có ba công nghệ trong nước xử lý chất thải rắn sinh hoạt đã được Bộ Xây dựng cấp giấy chứng nhận: SERAPHINE, ANSINH-ASC, MBT-CD. Cấp điện và chiếu sáng đô thị được cải thiện rõ rệt. 90% số các tuyến đường trục chính ở các đô thị loại III trở lên được chiếu sáng. Dịch vụ cung cấp thông tin liên lạc cũng phát triển nhanh chóng.
Thời gian qua, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn phát triển xã hội, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Xây dựng và các bộ, ngành đã từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực xây dựng và phát triển đô thị; trong đó, nhiều văn bản luật được nghiên cứu, xây dựng và ban hành như Luật Xây dựngnăm 2003, Luật Nhà ởnăm 2005, Luật Kinh doanh bất động sảnnăm 2006 và đặc biệt là Luật Quy hoạch đô thịđược Quốc hội thông qua tháng 6-2009. Các văn bản luật và hệ thống văn bản dưới luật thường xuyên được rà soát, điều chỉnh để từng bước đi vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong việc tạo dựng hành lang pháp lý đầy đủ, thông thoáng, hướng tới sự phát triển bền vững hệ thống đô thị Việt Nam.
2. Một số hạn chế cần khắc phục
Bên cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ của công tác phát triển đô thị trong những năm qua, vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc cần giải quyết.
Công tác lập quy hoạch xây dựng đô thị nhìn chung đã được quan tâm triển khai, nhiều đồ án quy hoạch vùng được Chính phủ phê duyệt, tuy nhiên, tỉ lệ phủ kín quy hoạch chi tiết tại các đô thị của cả nước còn thấp (tỉ lệ trung bình trong cả nước hiện nay khoảng 45%, hơn nữa, phân bố không đồng đều giữa các đô thị và vùng, miền). Điều này ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư, bố trí nguồn lực phát triển cũng như công tác quản lý xây dựng đô thị theo quy hoạch.
Mặt khác, tốc độ tăng trưởng và đô thị hóa cao tại phần lớn các đô thị đã dẫn đến sự mất cân đối trong khả năng đáp ứng của hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật đô thị, như:
- Tỉ lệ thất thoát trong cấp nước sạch ở các đô thị còn rất cao: đến nay, hầu hết các đô thị ở 63 tỉnh, thành phố đều đã và đang có các dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp mở rộng hệ thống cấp nước. Mặc dù tỉ lệ thất thoát, thất thu nước trên 40% (năm 2000) giảm xuống trung bình còn khoảng 30% (năm 2009) nhưng vẫn ở mức cao. Việc đầu tư chỉ mới quan tâm đến trạm, nhà máy - hệ thống phân phối gồm cải tạo hệ thống cũ mà chưa quan tâm đầy đủ đến việc mở rộng mạng mới nên công suất khai thác tại nhiều nhà máy nước mới chỉ đạt khoảng 77% so với công suất thiết kế.
![]() |
- Chưa có hệ thống thoát nước thải riêng: đến nay, mới chỉ có 32 đô thị lớn trên cả nước có các dự án về thoát nước và vệ sinh môi trường từ nguồn vốn ODA. Một số dự án được triển khai tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng... bước đầu phát huy hiệu quả, góp phần làm giảm mức độ ngập úng tại các đô thị. Tuy nhiên, tất cả các đô thị ở Việt Nam đều chưa có hệ thống thoát nước thải riêng mà dùng chung cho cả thoát nước mưa và nước thải. Các hệ thống thoát nước được đầu tư xây dựng qua nhiều thời kì khác nhau, không hoàn chỉnh, đồng bộ, nhiều tuyến cống xuống cấp nên khả năng tiêu thoát nước thấp. Nước thải hầu như chưa được xử lý mà xả thẳng vào nguồn tiếp nhận.
- Chất thải rắn ngày càng diễn biến phức tạp: chất thải từ các nguồn như sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, y tế, làng nghề và sinh hoạt đô thị đang ngày càng tăng nhanh về chủng loại, số lượng và tính độc hại. Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trung bình đạt 21.000 tấn/ngày. Chôn lấp vẫn là hình thức phổ biến với 85% số đô thị từ thị xã trở lên sử dụng biện pháp chôn lấp không hợp vệ sinh, gây ô nhiễm môi trường, tốn nhiều diện tích đất. Vấn đề quản lý chất thải rắn, đặc biệt là xử lý rác, nước rác, tình trạng ô nhiễm môi trường đô thị, vùng ven đô thị và môi trường xung quanh các cơ sở xử lý rác đang là mối quan tâm của nhiều địa phương, mặt khác, lựa chọn địa điểm để xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn cũng đang là vấn đề nan giải.
- Chất lượng chiếu sáng đô thị chưa cao: hiện nay, tất cả các đô thị của nước ta đều có điện chiếu sáng với mức độ khác nhau. Tại các đô thị loại đặc biệt và loại I như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... có 95-100% các tuyến đường chính được chiếu sáng; các đô thị loại II, III (Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Thanh Hoá, Vinh, Quy Nhơn, Nha Trang, Buôn Ma Thuột...), tỉ lệ này chiếm gần 90%. Các đô thị loại IV và loại V, tập trung chiếu sáng đường phố chính chủ yếu là những đoạn quốc lộ, tỉnh lộ đi qua đô thị. Tuy nhiên, chất lượng chiếu sáng chưa cao, hiệu suất sáng, cường độ sáng, độ rọi không đảm bảo tiêu chuẩn. Tỉ lệ ngõ xóm được chiếu sáng còn rất thấp, ngay tại đô thị đặc biệt, tỉ lệ này cũng chỉ chiếm khoảng 35-40%.
- Quản lý về cây xanh còn lỏng lẻo: trong thời gian qua, mặc dù công tác phát triển cây xanh đô thị đã được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm, diện tích cây xanh đô thị từng bước tăng dần cả về số lượng và chất lượng, cây trồng đặc biệt ở các đô thị lớn ngày càng phong phú, tuy nhiên, tỉ lệ bình quân diện tích đất cây xanh trên đầu người còn thấp, phần lớn dưới 10m 2/người (Hà Nội đạt 5,54m 2/người). Tỉ lệ diện tích đất cây xanh trên diện tích đất tự nhiên đô thị cũng thấp so với các đô thị trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng chặt phá cây, đặc biệt là các cây quý hiếm nằm trong nhóm phải được bảo tồn vẫn diễn ra. Nhiều đô thị tiến hành công tác cải tạo, nâng cấp và mở rộng đường phố dẫn đến việc chặt hạ hàng loạt cây xanh.
Bên cạnh những yếu kém về cơ sở hạ tầng thì vai trò của chính quyền đô thị cũng còn nhiều điều cần bàn. Thời gian qua, mặc dù chính quyền đô thị đã rất quan tâm đầu tư để xây dựng đội ngũ, liên tục đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ làm công tác quản lý đô thị bằng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cũng như sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức quốc tế, mô hình hợp tác với các thành phố trên thế giới đã đem lại nhiều kinh nghiệm bổ ích trong thực tiễn quản lý nhưng những cán bộ đã qua đào tạo chuyên môn lĩnh vực xây dựng và phát triển đô thị mới chỉ chiếm từ 9-11% ở cấp xã, chưa đáp ứng được mức độ đòi hỏi của khối lượng công việc. Mặt khác, do lĩnh vực quản lý đô thị và kinh tế đô thị còn là vấn đề khá mới mẻ, do đó, ở nhiều nơi, vai trò của chính quyền đô thị trong việc điều phối các đối tượng và điều tiết nguồn lực tham gia trong quá trình phát triển đô thị còn hạn chế, dẫn đến tình trạng thiếu thông tin, chồng chéo giữa các lĩnh vực.
3. Một số giải pháp nhằm phát triển đô thị bền vững.
a. Định hướng phát triển hệ thông đô thị quốc gia đến năm 2025.
Theo Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2050 được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 445/2009/QĐ-TTg ngày 07-4-2009 thì hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 phát triển theo từng giai đoạn, bảo đảm sự kế thừa các ưu điểm của Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1998, phù hợp với các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo từng thời kì và hội nhập kinh tế quốc tế.
Định hướng phát triển chung không gian đô thị cả nước theo hướng bảo đảm phát triển hợp lý các vùng đô thị hoá cơ bản giữa 6 vùng kinh tế - xã hội quốc gia, giữa miền Bắc, miền Trung và miền Nam; giữa phía Đông và phía Tây; gắn với việc phát triển các cực tăng trưởng chủ đạo và thứ cấp quốc gia, đồng thời, bảo đảm phát triển theo mạng lưới, có sự liên kết tầng bậc theo cấp, loại đô thị.
Từ nay đến 2015, ưu tiên phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng đô thị lớn và các khu kinh tế tổng hợp đóng vai trò là cực tăng trưởng chủ đạo cấp quốc gia; từ năm 2015 đến 2025, ưu tiên phát triển các vùng đô thị hóa cơ bản, giảm thiểu sự phát triển phân tán, cục bộ; giai đoạn từ năm 2026 đến năm 2050, chuyển dần sang phát triển theo mạng lưới đô thị.
Các chỉ tiêu phát triển đô thị được xác định cụ thể như sau:
- Mức tăng trưởng dân số đô thị: năm 2015, dự báo dân số đô thị cả nước khoảng 35 triệu người, chiếm 38% dân số đô thị cả nước; năm 2020, dân số đô thị khoảng 44 triệu người, chiếm 45% dân số đô thị cả nước; năm 2025, dân số đô thị khoảng 52 triệu người, chiếm 50% dân số đô thị cả nước.
- Phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị: năm 2015, tổng số đô thị cả nước đạt khoảng trên 870 đô thị; trong đó, loại đặc biệt là 2 đô thị, loại I là 9 đô thị, loại II là 23 đô thị, loại III là 65 đô thị, loại IV là 79 đô thị và loại V là 687 đô thị.
Năm 2025, tổng số đô thị cả nước khoảng 1.000 đô thị; trong đó, từ loại I đến đặc biệt là 17 đô thị, loại II là 20 đô thị, loại III là 81 đô thị, loại IV là 122 đô thị, còn lại là các đô thị loại V.
- Nhu cầu sử dụng đất xây dựng đô thị: năm 2015, nhu cầu đất xây dựng đô thị khoảng 335.000 ha, chiếm 1,06% diện tích tự nhiên cả nước, chỉ tiêu trung bình 95 m 2/người; năm 2020, nhu cầu đất xây dựng đô thị khoảng 400.000 ha, chiếm 1,3% diện tích tự nhiên cả nước, trung bình 90 m 2/người; năm 2025, nhu cầu đất xây dựng đô thị khoảng 450.000 ha, chiếm 1,4% diện tích tự nhiên cả nước, trung bình 85 m 2/người.
- Hạ tầng kĩ thuật đô thị: tại các đô thị lớn, cực lớn (đô thị đặc biệt, đô thị loại I và II) có tỉ lệ đất giao thông chiếm từ 20-26% đất xây dựng đô thị, các đô thị trung bình và nhỏ (đô thị loại III trở lên) chiếm từ 15-20% đất xây dựng đô thị; tỉ lệ vận tải hành khách công cộng ở các đô thị lớn đạt trên 35% vào năm 2015 và trên 50% vào năm 2025.
Năm 2015 đạt trên 80%, năm 2025 trên 90% dân số đô thị được cấp nước sạch; 100% các đô thị được cấp điện sinh hoạt vào năm 2015; trên 80% các tuyến phố chính đô thị được chiếu sáng và trên 50% được chiếu sáng cảnh quan vào năm 2025; bảo đảm nước thải và chất thải rắn đô thị được thu gom và xử lý triệt để đạt tiêu chuẩn theo quy định.
Cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu phát triển của đô thị và hội nhập kinh tế quốc tế; năm 2015 đạt trên 80% và năm 2025 đạt 100% chính quyền các đô thị từ loại III trở lên áp dụng chính quyền đô thị điện tử, công dân đô thị điện tử.
- Phát triển nhà ở đô thị: năm 2015, bình quân đạt trên 15 m 2/người; năm 2025, đạt bình quân 20 m 2/người.
b. Giải pháp.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là,đổi mới cơ chế, chính sách phát triển đô thị trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý quy hoạch, quản lý nhà, đất; quản lý đầu tư xây dựng, quản lý khai thác sử dụng công trình đô thị, tạo ra sự thay đổi cơ bản đối với hệ thống đô thị cả nước. Đặc biệt, không ngừng đẩy mạnh vai trò công tác lập quy hoạch và nâng cao chất lượng quy hoạch. Công tác quy hoạch phải được ưu tiên đầu tư đi trước để định hướng và bảo đảm tính đồng bộ trong quá trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo chỉnh trang đô thị. Đồng thời với việc áp dụng các tiến bộ trong phát triển đô thị, quy hoạch không những phải đáp ứng yêu cầu cao về tạo dựng chất lượng không gian đô thị, mà còn phải đáp ứng tốt yêu cầu về dự báo gắn sát với thực tiễn và xu hướng phát triển của xã hội, thật sự trở thành nền tảng cho việc tạo dựng nguồn lực phát triển cho đô thị.
Nâng cao vai trò chức năng và quyền hạn của các bộ, ngành và địa phương trong tổ chức, thực hiện, quản lý phát triển đô thị. Tăng cường phân cấp quản lý đô thị; nâng cao quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền đô thị các cấp.
Hai là,tạo dựng nguồn lực phát triển đô thị từ chính nội lực của đô thị. Hình thành hệ thống quỹ đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, mở rộng nguồn thu và phương thức thu đi các đô thị; xây dựng cơ chế phát triển hạ tầng đô thị bằng nhiều nguồn vốn, theo hướng khuyến khích sự tham gia của các khu vực ngoài nhà nước.
Thông qua các giải pháp về quy hoạch đô thị kết hợp với các chính sách phù hợp để huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế trong xã hội, thực hiện chủ trương xã hội hoá đầu tư cho phát triển đô thị, đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, đẩy nhanh tiến trình nâng cấp chất lượng đô thị hoá.
Đổi mới công tác quản lý đất đai và phát triển thị trường bất động sản; tiếp tục hoàn chỉnh và đổi mới chính sách về nhà và đất đô thị để ổn định đời sống và tạo nguồn lực phát triển đô thị.
Ba là,cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới tư duy trong quản lý nhà nước về đô thị đi đôi với việc nâng cao phẩm chất, năng lực và trình độ cán bộ quản lý đô thị các cấp. Tăng cường phân cấp quản lý đô thị; nâng cao quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền đô thị, tổ chức bộ máy tinh giản, gọn nhẹ, nâng cao tính hiệu quả, hiệu lực quản lý, đồng thời, chú trọng hơn nữa công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng nhiều hình thức phù hợp với thực tế trình độ kinh nghiệm và kiến thức.
Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào mục đích cải tạo xây dựng và hiện đại hoá đô thị; xây dựng chính quyền đô thị điện tử.
Bốn là,cần chú trọng phát huy vai trò và trách nhiệm làm chủ của cộng đồng, của người dân đô thị. Việc xây dựng và duy trì chất lượng đô thị phụ thuộc một phần quan trọng trong ý thức của người dân thực hiện nếp sống văn minh đô thị. Do đó, cần có giải pháp tích cực để cộng đồng nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm tham gia xây dựng và quản lý đô thị được cụ thể hoá ngay từ trong cuộc sống hằng ngày của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng của đô thị.









