Phát triển đô thị sinh thái và bền vững
Theo thống kê của Bộ Xây dựng, năm 1990 cả nước có khoảng 500 đô thị, đến tháng 9-2012, mạng lưới đô thị đã phát triển với hơn 760 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa trên 31%, dự báo sẽ đạt khoảng 45% trong 10 năm tới.
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, đô thị Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế, phát triển thiếu bền vững, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, đặc biệt là việc ứng phó trước các tác động của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường.
Sự phát triển chưa bền vững, thể hiện trước hết là công tác quy hoạch còn thiếu và chậm so với yêu cầu thực tiễn, hạ tầng thiếu đồng bộ… dẫn đến quá trình phát triển đô thị còn chưa tuân thủ đúng quy hoạch cũng như kế hoạch. Đặc biệt là các yêu cầu nâng cao hiệu quả các nguồn tài nguyên, giảm các chi chí cho các nhu cầu tiêu thụ năng lượng để kiểm soát ô nhiễm môi trường đã trở nên ngày càng gay gắt, mà các đô thị ở Việt Nam không thể bỏ qua trong quá trình phát triển.
Hiện nhu cầu tiêu thụ về năng lượng và tài nguyên tại các trung tâm đô thị ngày một tăng cao. Hằng năm, các đô thị đang sử dụng khối lượng lớn các nguồn năng lượng như điện, than, nước sạch... cho các hoạt động phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và dịch vụ. Nhu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng, giảm thiểu các chi phí đầu tư vận hành là rất cần thiết.
Ví dụ như mỗi năm TP. Hồ Chí Minh phải trích từ 14 - 15% GDP để dành cho nhu cầu về năng lượng. Theo đánh giá của các nhà khoa học, tiềm năng cắt giảm cho nhu cầu này từ 10 - 40% là có khả năng, song việc cắt giảm đòi hỏi chi phí ban đầu tăng lên khoảng từ 30 - 40%, trong khi đó Việt Nam là nước đang phát triển, các nguồn lực đầu tư thấp. Do vậy, đây chính là trở ngại cơ bản cho việc áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng tại các đô thị Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc tiêu thụ năng lượng quá lớn từ các công trình xây dựng cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu. Ước tính, mức tiêu thụ năng lượng từ các công trình xây dựng hiện chiếm khoảng 35 - 40% tiêu thụ năng lượng toàn cầu và cũng phát thải khoảng 37% khí nhà kính. Chính vì thế, việc phát triển kiến trúc xanh để tạo ra các công trình xanh có tác dụng rất lớn trong việc sử dụng tài nguyên một cách có hiệu quả, giảm phát thải khí nhà kính và làm giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu.
Hơn nữa, tại Việt Nam hiện nay các chủ đầu tư chưa nhận thức được giá trị của những công trình xanh mang lại. Chi phí xây dựng cũng có phần cao hơn các công trình khác, nên vấn đề “xanh” chưa được quan tâm đúng mức. Bởi lẽ, các chủ đầu tư đều muốn xây dựng những chung cư cao tầng với chi phí thấp nhất và có lợi nhuận cao nhất. Trong khi đó, việc thiết kế xây dựng công trình theo hướng kiến trúc xanh có giá thành cao hơn khoảng 30 - 40%.
Chính vì vậy, việc xây dựng các công trình theo tiêu chí kiến trúc xanh ở Việt Nam vẫn chưa nhiều, ngay cả khi quy chuẩn xây dựng của Việt Nam cũng đã đề cập đến mục tiêu tăng cường các giải pháp thiết kế và kỹ thuật, để sử dụng hiệu quả năng lượng trong công trình xây dựng.
Theo Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam: Một đô thị xanh phải đạt các tiêu chí như không gian xanh; công trình xanh; giao thông xanh; công nghiệp xanh; chất lượng môi trường đô thị xanh; bảo tồn cảnh quan thiên nhiên và cộng đồng dân cư sống thân thiện với môi trường. Xét về các tiêu chí này, thì các đô thị Việt Nam chưa thể "vươn" tới một đô thị xanh đúng nghĩa.
Nhưng để giảm thiểu những tác hại của môi trường, cũng như xây dựng môi trường bền vững, tiêu chí xây dựng đô thị xanh đang là đích hướng tới của các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp bất động sản, kiến trúc.
Theo Quy hoạch chung phát triển Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Hà Nội sẽ dành khoảng 70% diện tích cho phát triển “vành đai xanh”, 30% diện tích còn lại xây dựng các khu dân cư và hoạt động của các làng nghề.
Theo đó, vành đai xanh có chức năng bảo vệ những khu vực tự nhiên quan trọng như hệ thống sông hồ, vùng núi Ba Vì, Hương Tích, Sóc Sơn; bảo vệ vùng nông thôn, nông nghiệp năng suất cao, các làng xóm, làng nghề truyền thống, các di tích văn hoá và kiểm soát lũ lụt. Việc xây dựng “vành đai xanh” sẽ góp phần quan trọng trong việc phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm và suy thoái môi trường, cũng như cải thiện mạnh mẽ chất lượng môi trường sống trong quá trình phát triển đô thị hiện nay và trong những năm tới.
Cũng theo Quy hoạch này, Hà Nội sẽ xây dựng đường cảnh quan Bắc - Nam và 3 đô thị sinh thái mật độ thấp là Phúc Thọ, Quốc Oai, Chúc Sơn (quy mô dân số tối đa 5 vạn người/đô thị) tại giao cắt của 3 tuyến chính QL6, đường Láng-Hòa Lạc và QL32. Duy trì các thị trấn hiện hữu như Phùng, Tây Đằng, Phúc Thọ, Liên Quan, Kim Bài, Vân Đình, Đại Nghĩa, Thường Tín… và hình thành mới một số thị tứ. Các đô thị sinh thái và các thị trấn, thị tứ có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công cộng hỗn hợp cho khu vực nông thôn.
Để bảo vệ môi trường, Quy hoạch cũng đưa ra một số giải pháp trọng tâm cần thực hiện như bảo tồn, cải thiện môi trường (khu vực lõi đô thị trung tâm từ phía Nam sông Hồng đến vành đai 2); xử lý, phục hồi môi trường (các khu dân cư, khu công nghiệp cũ phía Nam đô thị trung tâm từ vành đai 2 đến vành đai 3); kiểm soát, khống chế ô nhiễm môi trường đô thị (vùng đô thị lõi mở rộng từ sông Nhuệ đến vành đai 4 và Khu vực đô thị mới Hòa Lạc, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, Xuân Mai, Mê Linh, Phú Xuyên); phòng hộ môi trường (vùng vành đai xanh);
Giảm thiểu rủi ro môi trường (vùng hành lang 2 bên sông Hồng và hành lang xanh thuộc vùng xả lũ sông Đáy và sông Tích); bảo vệ hệ sinh thái (khu vực Ba Vì, Đồng Mô, Suối Hai, Quan Sơn, Hồ Tây, Sóc Sơn, Hương Sơn); kiểm soát, khống chế ô nhiễm môi trường nông thôn.
Như vậy, cũng giống như nhiều nước khác trên thế giới và khu vực như Singapore, Thái Lan, Trung Quốc…, quá trình phát triển các khu đô thị sinh thái, bền vững ở Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nhiều mặt trái. Nhưng là nước đi sau nên chắc chắn Việt Nam sẽ có những bài học kinh nghiệm quý báu.
Bởi vậy, làm sao để thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế nhưng phải kiểm soát được những ảnh hưởng về sinh thái, cơ sở hạ tầng và xã hội trong khi vẫn phải mang lại một cuộc sống chất lượng cao cho cư dân đô thị, chính là trách nhiệm lớn lao đang đặt lên vai các nhà hoạch định chính sách hiện nay.








