Phát triển công nghệ: Động lực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
1. Thành tựu
Từ thập kỷ 90 nhiều công nghệ mới được đưa vào nước ta thông qua các dự án ODA và FDI. Đi tiên phong là công nghệ khai thác dầu khí và các công nghệ xây dựng cầu hầm, đường bộ, nền móng, nhà công nghiệp, nhà cao tầng, tiếp đó là các công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, kính nổi, sơn và công nghệ cấp nước, rồi đến công nghệ điện tử, năng lượng, cơ khí chế tạo và hàng tiêu dùng. Công nghệ thông tin và viễn thông có tốc độ phát triển nhanh chóng. Công nghệ mới cũng được sử dụng có hiệu quả trong ngành y, dược và một số ngành dịch vụ như ngân hàng, quảng cáo v.v… Nhờ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật hiện đại mà nhiều mặt hàng nông sản, thủy sản tăng trưởng nhanh và xuất khẩu với số lượng lớn, chiếm tỷ trọng đáng kể trên thị trường quốc tế.
Trong quá trình tiếp thu công nghệ mới của thế giới, chúng ta cũng bước đầu tự mình phát triển có hiệu quả một số công nghệ mà tiêu biểu là sơn KOVA hay xe máy chạy bằng khí ga, và bắt đầu áp dụng thí điểm một số công nghệ mũi nhọn như công nghệ lade, công nghệ sinh học và công nghệ nano. Chúng ta cũng đang tích cực chuẩn bị để sử dụng công nghệ năng lượng hạt nhân và công nghệ không gian.
Tuy vậy đạt hiệu quả nhiều nhất vẫn là việc tự đảm nhiệm công tác bảo dưỡng và sửa chữa nhiều hệ thống công nghệ phức tạp, kể cả kiểm tra sửa chữa máy bay phản lực chở khách hiện đại, và thay thế một số sản phẩm và dây chuyền công nghệ ngoại bằng công nghệ nội có chất lượng tương đương nhưng giá thành rẻ hơn nhiều. Ngoài ra chúng ta còn phát triển được nhiều công nghệ thích hợp mà tiêu biểu là các sản phẩm được giải thưởng Sáng tạo Khoa học công nghệ Việt Nam.
Tuy nhiều người vẫn chưa bằng lòng với các thành tựu công nghệ đạt được, cho rằng nếu có chính sách khoa học công nghệ tích cực hơn và được điều hành tập trung hơn thì các thành tựu này còn đến nhanh hơn, nhiều hơn, nhưng mọi người hẳn cũng đồng ý rằng nếu không có Đổi mới thì không thể có, dù chỉ một phần thôi, các thành tựu như thế! Vậy hãy thử tìm hiểu xem vì sao Đổi mới lại mở ra chân trời công nghệ hiện đại cho nước ta và cơ hội này đã được tận dụng đến mức nào?
2. Lợi thế hậu phát
Lịch sử cho biết nước phát triển sau có thể tận dụng lợi thế hậu phát để đi tắt và tiếp cận ngay với các thành tựu hiện đại đương thời. Lợi thế hậu phát đó trong nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa của thời đại hậu công nghiệp, nhờ có công nghệ thông tin và WTO, lại càng mở rộng hơn nữa cho bất cứ nước nào có tư duy cởi mở, có ý chí mãnh liệt và có đủ khôn ngoan biết nắm bắt cơ hội mà xây dựng bản lĩnh cạnh tranh để phát triển nhảy vọt lên phía trước. Phát triển công nghệ chính là tạo động lực thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đó là bài học kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới (NIC) như Hàn Quốc, Đài Loan.
Vậy thời gian qua nước ta đã tận dụng lợi thế hậu phát để phát triển công nghệ như thế nào?
Như trên đã nói, công nghệ hiện đại trước tiên vào nước ta thông qua các dự án ODA (đối với kết cấu hạ tầng) và FDI (đối với sản xuất và dịch vụ). Tuy vậy trong thời kỳ đầu đấy mới chỉ là những công nghệ hạng ba, hạng tư vì mấy lẽ: một là nhiều nhà đầu tư lúc đó chủ yếu nhắm vào việc khai thác nhân công rẻ để sản xuất hàng tiêu dùng thông thường, hai là nguồn nhân lực đã qua đào tạo của nước ta còn quá thiếu và ba là hiểu biết của chúng ta lúc đó về công nghệ hiện đại của thế giới còn quá ít ỏi.
Dần dà công nghệ trong các dự án FDI được nâng hạng, nhất là dự án của các tập đoàn đa quốc gia. Rồi đây với làn sóng đầu tư “hậu WTO” và hậu “PNTR”, nhiều công nghệ đa dạng và hiện đại hơn nữa thuộc hạng hai, hạng một sẽ được du nhập vào nước ta, thậm chí có cả một số công nghệ cao.
Việc tìm kiếm công nghệ trên thị trường công nghệ quốc tế là công việc bình thường của các nhà đầu tư của mọi quốc gia phát triển hoặc kém phát triển. Cơ hội là bình đẳng nhưng không phải ai cũng biết tận dụng hoặc có thể tận dụng tốt nhất cơ hội đó. Để tận dụng cơ hội thì ngoài việc nắm chắc thông tin công nghệ còn phải nắm chắc được khả năng làm chủ công nghệ, tức là có nguồn nhân lực cần thiết, có khả năng sửa chữa vừa đến sửa chữa lớn, và cũng phải xét đến khả năng xử lý các rủi ro về cung ứng nguyên liệu và phụ tùng thay thế. Chẳng hạn, Tiến sĩ Choi, nguyên Viện trưởng Viện KIST của Hàn Quốc, trong bài báo được dịch đăng trên Khoa học & Tổ quốc có đề cập đến nguy cơ phải đóng cửa một nhà máy dược phẩm của nước này vì các hãng nước ngoài ngừng cung cấp hóa chất tinh vi dùng làm nguyên liệu, và rồi Viện KIST đã giúp giải quyết kịp thời bài toán đó.
Các nước phát triển ít gặp rủi ro tương tự vì họ không chỉ mua mà cũng bán công nghệ, tức là có sự trao đổi, nếu có muốn thì cũng không dễ dàng gì bắt bí được nhau. Còn các nước kém phát triển thì chỉ có đi mua công nghệ thôi, cho nên cần lường trước các “đỏng đảnh” thời tiết thị trường quốc tế. Vì vậy sau thời kỳ “tích lũy” một số vốn công nghệ mua được và học được thì các nước hậu phát phải nghĩ đến việc tự mình phát triển đột phá một số lĩnh vực công nghệ nào đó được lựa chọn cân nhắc kỹ và phải đạt đến đỉnh cao để có thể đưa ra trao đổi với các nước khác. Ngay một nước nhỏ bị Mỹ cấm vận ngặt nghèo như Cuba nhưng nhờ biết tập trung đột phá vào công nghệ sinh học và y học nên vẫn có chỗ mạnh nhất định để chọc thủng vòng vây, và nay nhiều người Mỹ và các nước khác cũng tìm cách sang Cuba du lịch chữa bệnh. Thụy Điển buôn bán với cả nước Đức quốc xã trong chiến tranh thế giới thứ II và viện trợ nhà máy giấy cho Việt Nam trong điều kiện cấm vận mà Mỹ vẫn không làm gì được, vì chính Mỹ cũng cần đến công nghệ của Thụy Điển, chẳng hạn các loại thép hợp kim đặc chủng dùng trong công nghiệp quốc phòng.
Qua tiếp xúc với các dự án FDI, các nhà đầu tư trong nước cũng dần dần tăng thêm hiểu biết về công nghệ hiện đại. Sau giai đoạn bỡ ngỡ cùng với một số vấp ngã ban đầu như “xi măng lò đứng”, “công nghệ mía đường” hoặc thiết bị cũ được tân trang, các nhà đầu tư trong nước từng bước bỏ thói ham rẻ, cất công tìm tòi thông tin công nghệ trên mạng Internet và đi khảo sát công nghệ nhiều nước để tìm cho được công nghệ phù hợp, đem lại hiệu quả nhiều nhất cho dự án đầu tư. Tuy vậy đấy vẫn là các công nghệ hạng hai, hãn hữu lắm mới gặp được công nghệ hạng một. Đó là vì mấy lẽ sau đây: một là, tuy cố gắng nhưng doanh nhân vẫn chưa thường xuyên nắm bắt động thái phát triển công nghệ thuộc lĩnh vực quan tâm, nhất là ít quan tâm tham dự các hội chợ, triển lãm và hội thảo quốc tế để trực tiếp gặp gỡ tìm kiếm thông tin qua các doanh nhân nước ngoài; hai là, công nghệ ngày nay tiến bộ rất nhanh, cứ mỗi giai đoạn từ khoảng dăm mười năm đến vài ba năm tùy theo lĩnh vực thì lại có thế hệ công nghệ mới, nên công nghệ xuống hạng rất nhanh, trong khi đó công việc chuẩn bị đầu tư và thực hiện dự án ở nước ta lại hay lề mề kéo dài, đến khi dự án hoàn thành thì công nghệ đã kịp trở thành lạc hậu, và cuối cùng làở nước ta chưa hình thành dịch vụ tư vấn công nghệ chuyên nghiệp để giúp cho các nhà đầu tư. Thủ tục đầu tư xây dựng quan liêu cũng đã làm hại ghê gớm cho việc áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất của Liên Xô là nước vốn phát triển khá trong thời kỳ cơ khí hóa nhưng rồi tụt hậu nhanh trong thời kỳ hậu cơ khí, vì các dự án thường được chuẩn bị trong kế hoạch 5 năm trước để rồi thực hiện trong cả 5 năm tiếp theo, vị chi nhanh nhất thì cũng phải mất 10 năm từ khi có chủ trương đầu tư đến khi ra được sản phẩm “mới” nhưng đã thuộc thế hệ công nghệ cũ!
Tóm lại, đúng như nhận định của Đảng, “toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”. ( Văn kiện Đại hội X.Tr.78).
3. Các thách thức trên con đường phát triển công nghệ.
Đảng đã vạch rõ con đường phát triển công nghệ của nước ta từ nay đến năm 2010, cụ thể là:
1) Đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp công nghệ nội sinh;
2) Phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới;
3) Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về nhân lực và công nghệ;
4) Đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ;
5) Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học, công nghệ;
6) Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ;
7) Đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp;
8) Khuyến khích các hoạt động sáng tạo, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ mới;
9) Khuyến khích các công ty xuyên quốc gia đầu tư và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam;
10) Trọng dụng nhân tài như các tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, thu hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi trong nước và ngoài nước, kể cả Việt kiều.
Mười nội dung nói trên của đường lối phát triển công nghệ quốc gia đã bao quát đầy đủ những việc nên làm và cần làm, thế nhưng tôi lo rằng “tình trạng nói nhiều làm ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc không làm còn diễn ra ở nhiều nơi” ( Văn kiện ĐH X.Tr. 66)cũng sẽ tiếp tục diễn ra trong lĩnh vực công nghệ, chí ít thì từ Đại hội đến nay đã được gần 1 năm rồi mà vẫn chưa thấy có văn bản nào đề ra các việc cụ thể cần làm để thực hiện các nội dung nói trên đối với công nghệ xây dựng, là đối tượng quan tâm của Tổng hội Xây dựng Việt Nam. Như vậy thách thức đầu tiên lànói phải đi đôi với làm, là tổ chức để hành động.
Để tổ chức hành động đạt hiệu quả, tôi nghĩ rằng chúng ta nên đứng ở tầm cao hiện nay mà tổng kết đánh giá thực trạng công nghệ quốc gia, nêu ra được các bài học kinh nghiệm qua các trường hợp thành công cũng như thất bại. Ví dụ chắc là có nhiều, riêng tôi xin kể câu chuyện công nghệ sản xuất kim khâu. Theo đề xuất của UBND Hà Nội, Chính phủ Thụy Sĩ viện trợ không hoàn lại một nhà máy sản xuất kim khâu đặt ở Cầu Biêu và dùng công nghệ của Nhật Bản. Nhà máy đã xây, thiết bị máy móc đã lắp đặt, kỹ sư và công nhân đã sang Nhật thực tập, nguyên liệu đã mua, chuyên gia đã sang hướng dẫn và chuyển giao công nghệ. Thế nhưng sau khi chuyên gia về thì kim làm ra không dùng được vì một nhược điểm nho nhỏ: chỉ xuyên vào lỗ kim bị đứt vì lỗ kim quá sắc. Đã tìm đủ mọi cách nhưng không khắc phục được tình trạng kim không chịu kết hợp với chỉ! Kết quả là nước ta đến nay vẫn chưa sản xuất được cây kim khâu bé nhỏ và cũng không ai còn nhớ đến nhà máy kim Cầu Biêu ấy nữa. Bài học là chớ coi thường những bí quyết sản xuất (know - how), cứ tưởng nhìn qua là biết nên không bỏ tiền ra mua, hoặc không thành tâm bái sư để học.
Thách thức tiếp theo là việc phát triển nguồn nhân lực vì ai cũng hiểu phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tối cần thiết để phát triển công nghệ, vì vậy cần đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực không những về mặt kiến thức mà cả về kỹ năng để làm chủ công nghệ. Ngoài việc đào tạo lần đầu còn cần đào tạo liên tục để theo kịp các tiến bộ công nghệ, và cả đào tạo lại vì luôn luôn có công nghệ (và ngành hàng dùng công nghệ đó) bị thải loại hoặc xuất hiện mới.
Nguồn nhân lực nước ta có mặt mạnh về trình độ văn hóa, tiếp thu nhanh, khéo tay và khi được đãi ngộ xứng đáng thì khá chăm chỉ, đồng thời cũng có những mặt yếu là dễ bằng lòng với kết quả đạt được và kém cẩn thận chu đáo tuân thủ kỷ luật công nghệ. Nếu khắc phục được nhược điểm cuối cùng này thì nguồn nhân lực nước ta sẽ trở thành nguồn vốn quý giá để phát triển công nghệ. Đáng tiếc là hiện nay công tác đào tạo nguồn nhân lực, trên cả hai bình diện chất lượng và số lượng, đều tụt hậu khá xa với nhu cầu sử dụng, nếu không khắc phục nhanh thì sẽ trở thành nhân tố kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế! Vì vậy công tác đào tạo nguồn nhân lực hiện đang là thách thức lớn đối với phát triển công nghệ nói riêng và phát triển kinh tế quốc dân nói chung.
Đào tạo nguồn nhân lực không chỉ bó hẹp trong đào tạo lao động lành nghề, mà còn quan tâm đào tạo đội ngũ kỹ sư có khả năng làm chủ công nghệ mua về, kể cả công nghệ cao, và đội ngũ các nhà công nghệ có khả năng nghiên cứu phát triển công nghệ nội sinh. Đội ngũ các nhà hoạch định chính sách, các công chức quản lý nhà nước về công nghệ cũng cần được nâng cao năng lực để họ trở thành nhân tố tạo điều kiện phát triển thị trường công nghệ chứ không phải ngược lại. Và để thị trường công nghệ hoạt động thông suốt thì cũng cần có lực lượng môi giới và tư vấn công nghệ có trình độ chuyên nghiệp cao.
Thách thức cuối cùng là thách thức về thể chế vì đối với một nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường như nước ta thì việc xây dựng và hoàn thiện các loại thể chế, kể cả trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, có vai trò rất quyết định đến sự phát triển quốc gia. Công việc này được bàn đến đã lâu rồi nhưng tiến triển quá chậm chạp và cũng rơi vào tình trạng nói nhiều làm ít! Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này, ở đây tôi xin nêu vắn tắt vài nhận xét cá nhân:
1) Chúng ta tiến hành đổi mới thể chế một cách mò mẫm, theo kiểu “thử nghiệm và sai lầm”, khác với Trung Quốc: trước tiên họ tổ chức việc nghiên cứu học hỏi (giao cho các tổ chuyên gia, các trường Đại học và các Viện nghiên cứu) và định ra lộ trình cải cách, làm thí điểm rồi tổng kết đánh giá để làm thành thể chế chính thức. Thời hạn có khi kéo dài tới mười năm!
2) Tôi có cảm giác công tác nghiên cứu và đề xuất đổi mới thể chế là độc quyền của một số bộ phận nào đó và được tiến hành khép kín, ít khi đưa ra lấy ý kiến rộng rãi thông qua các tranh luận dân chủ, khoa học. Vì vậy không có gì lạ là các luật, nghị định của nước ta cứ phải thay đổi bổ sung luôn, thậm chí ngay sau khi vừa ban hành xong. Tôi đánh giá đó là do thái độ khinh suất chứ không phải vừa làm vừa học, sai đâu sửa đấy!
Trong lĩnh vực công nghệ, thể chế cấp thiết nhất là thể chế thị trường công nghệ. Nước ta đã ra được Luật về sở hữu trí tuệ, đó là điều đáng mừng, thế nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm, kể cả việc xây dựng các thể chế hỗ trợ thị trường như bảo hiểm, bảo mật, đồng tác giả, tư vấn công nghệ v.v… Chủ nghĩa quan liêu và tệ tham nhũng trong đầu tư xây dựng cũng là thách thức nghiêm trọng về mặt thể chế đối với thị trường công nghệ, như đã trình bày ở phần trước.
Tóm lại, muốn phát triển công nghệ quốc gia thì còn phải vượt qua được các thách thức về mặt thể chế.
Ba thách thức kể trên về tổ chức hành động, về nguồn nhân lực và về thể chế có thể chưa bao gồm đầy đủ các thách thức đối với việc phát triển công nghệ quốc gia, nhưng tôi nghĩ đó là các thách thức chủ yếu mà tôi tin rằng nước ta nhất định sẽ vượt qua để thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
4. Ra khơi cần chí lớn
Con tàu kinh tế nước ta đang ra đại dương WTO. Sóng gió cạnh tranh trong đại dương này không giống như trong sông nhà mình và cũng khác nhiều với cái vịnh nhỏ khu vực. Có người lo con tàu không chịu nổi thử thách, người khác thì thấy ngợp. Thế nhưng có ra khơi thì mới mở ra triển vọng lớn, vả lại quanh quẩn ven bờ bây giờ cũng chẳng còn mấy ai !
Càng ra khơi xa thì cạnh tranh càng khốc liệt, vì cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của thị trường. Vì vậy muốn đi đến thắng lợi thì nước ta phải nâng cao được năng lực cạnh tranh quốc gia bằng sự hiểu biết đối thủ và quy tắc của cuộc chơi, bằng các chính sách khôn khéo, bằng sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, và bằng sự sáng suốt của người cầm lái. Bài học của một số nước là khuyến khích cạnh tranh hết mức khi kinh doanh trong nước và hợp tác liên kết khi kinh doanh ở nước ngoài.
Trong số các chính sách thì chính sách phát triển khoa học và công nghệ, và đi đôi với nó là chính sách giáo dục và đào tạo, ngày càng trở nên quan trọng và đóng vai trò quyết định trong việc rút ngắn rồi xoá bỏ khoảng cách kinh tế giữa nước ta với các nước phát triển và chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
Để chuyển từ chính sách sang hành động, tôi xin đề xuất một số việc cụ thể:
- Chính phủ thành lập 2 Viện tương tự như Viện KIST của Hàn Quốc ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và thuê người giỏi, kể cả Việt kiều và người nước ngoài làm Viện trưởng. Hai Viện này cũng cung cấp dịch vụ tư vấn công nghệ;
- Các phòng thí nghiệm trọng điểm nên độc lập về quản lý và tự chủ về tài chính, cung cấp dịch vụ thí nghiệm cho bất cứ ai trên cơ sở thương mại. Thuê người giỏi làm giám đốc phòng thí nghiệm;
- Ngân sách nhà nước dành cho khoa học và công nghệ thì một phần ba nên được dùng để linh hoạt đặt hàng nghiên cứu, cho vay nghiên cứu hoặc trợ giúp để hoàn chỉnh các công nghệ đã được nghiên cứu có kết quả bước đầu mà không cần qua khâu kế hoạch và thủ tục cứng nhắc.
- Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật chủ trì một chương trình trọng điểm cấp nhà nước về phát triển công nghệ quốc gia nhằm cụ thể hoá 10 chủ trương của Đảng về công nghệ.








