Phát triển công nghệ bảo quản lâm sản ở Việt Nam
Rừng tự nhiên Việt Nam đang cạn kiệt, nhiều loài gỗ có độ bền cơ lý cao như Đinh, Lim, Sến, Táu, Căm xe..không còn nhiều, thay thế là các loại gỗ rừng trồng như Bạch đàn, Keo, Bồ đề, Trám…Phần lớn những loài gỗ ở rừng trồng có độ bền tự nhiên thấp xong lại có những ưu điểm cần được khai thác. Trước tiên là chu kỳ khai thác ngắn; chỉ 7-8 năm so với gỗ tự nhiên là 80-90 năm. Mỗi năm trên toàn quốc trồng thêm hàng triệu hecta sẽ cho một khối lượng nguyên liệu lớn. Một ưu điểm đặc biệt quan trọng đối với công nghệ bảo quản là dễ thấm các chế phẩm bảo quản, tạo ra độ bền cao, chống được các vi sinh vật gây hại. Ví dụ, trước đây người dân phải dùng lõi lim làm nọc tiêu mới chịu đựng được 15-20 năm, những thành tựu nghiên cứu mới được công bố của Viện khoa học Lâm nghiệp và Trung tâm Phát triển công nghệ lâm sản có thể dùng gỗ rừng trồng là Keo và Bạch đàn đã được bảo quản để thay thế.
Tóm lại, Công nghệ BQLS đã được coi là một bộ phận của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới từ cuối thế kỷ XIX. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, các nước có nền công nghiệp phát triển ở châu Âu và Mỹ đã áp dụng công rộng rãi công nghệ bảo quản gỗ, hàng năm trên thế giới đã tiết kiệm được hàng trăm triệu m 3gỗ, không những mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn góp phần tiết kiệm tài nguyên rừng, bảo vệ môi trường. Công nghệ BQLS có một vị trí và vai trò quan trọng ở Việt Nam .
Nguồn: Bản tin Hội KHKT Lâm nghiệp, số 15, tháng 11/2005