Phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Sự cần thiết phải phát triển các doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam
Xây dựng và phát triển các doanh nghiệp KH&CN, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay đang là đòi hỏi bức xúc.
Sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp KH&CN sẽ tạo điều kiện cho chúng ta huy động được tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn lực KH&CN, trước hết là nguồn chất xám của đội ngũ trí thức để phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Để thực hiện được mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội (KT-XH) 5 năm 2006-2010 của nước ta, chúng ta phải huy động triệt để và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong công cuộc phát triển KT-XH, trong đó có nguồn lực KH&CN. Nguồn lực KH&CN được thể hiện trước hết ở đội ngũ cán bộ khoa học. Nguồn lực này ở nước ta đã tăng lên khá nhanh trong 20 năm đổi mới vừa qua. Nếu như năm 1995, cả nước có 800.000 người có trình độ từ cao đẳng trở lên, thì đến năm 2004, số cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học đã là 2.000.000 người, số cán bộ có trình độ thạc sĩ là 20.000 người và có trình độ tiến sĩ trở lên là 14.000 người. Ngoài ra, chúng ta còn có gần 30 vạn trí thức Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nhiều lĩnh vực KH&CN của 90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Lực lượng này luôn hướng về Tổ quốc, sẵn sàng đóng góp sức lực và trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng Tổ quốc. Như vậy, số lượng cán bộ KH&CN của chúng ta không phải là ít. Về chất lượng, đội ngũ cán bộ KH&CN của chúng ta cũng không thua kém nhiều. Rất nhiều nhà khoa học của chúng ta được đánh giá cao trên các diễn đàn khoa học quốc tế. Các nhà khoa học của ta được đánh giá là thông minh, tiếp cận nhanh với nền khoa học tiên tiến của thế giới. Những kết quả trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ cầu đường, công nghệ đóng tàu, công nghệ điện và khai thác dầu khí… đã cho ta thấy điều đó. Mặt hạn chế là đội ngũ cán bộ KH&CN của chúng ta quá thiếu phương tiện nghiên cứu và sự đãi ngộ còn thấp, do đó chưa tạo điều kiện và động lực để cho họ nghiên cứu, sáng tạo.
Chính vì thế, việc phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp KH&CN sẽ cho phép thu hút đông đảo đội ngũ các nhà khoa học của đất nước vào nghiên cứu, sáng tạo ra các sản phẩm mới, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Các doanh nghiệp KH&CN là phương thức chuyển giao công nghệ nhanh nhất
Đa phần các doanh nghiệp ở nước ta, nhất là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, mới được thành lập trong những năm gần đây là có năng lực không lớn. Năng lực không lớn ở đây được hiểu là: Không đủ vốn để đổi mới công nghệ; chưa đủ trình độ để làm chủ công nghệ mới; còn ngần ngại, không dám mạo hiểm kinh doanh. Việc các doanh nghiệp KH&CN ra đời và phát triển sẽ giúp tháo gỡ bức xúc này cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Sự phát triển của các doanh nghiệp KH&CN là phương thức tốt nhất gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo nguồn nhân lực và phát triển kinh tế. Bởi lẽ, có các doanh nghiệp KH&CN thì các kết quả nghiên cứu, sáng chế sẽ được kiểm nghiệm ngay, nếu thực sự hữu ích thì các nhà khoa học sẽ được giữ bản quyền, được nhận tiền bán sáng chế. Các nhà khoa học vì thế sẽ gắn với thực tiễn hơn, các nghiên cứu sẽ thiết thực hơn. Mặt khác, có các doanh nghiệp KH&CN thì sinh viên sẽ có nơi để thực hành, làm quen với công nghệ mới, với phương pháp quản lý hiện đại, gắn kết học với hành.
Những biện pháp hỗ trợ cho sự phát triển các doanh nghiệp KH&CN
Phát triển các vườn ươm doanh nghiệp.
Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ (Technology Business Incubator - TBI) là một loại hình vườn ươm doanh nghiệp đặc biệt. Nó nằm trong một khái niệm rộng hơn, đó là Vườn ươm doanh nghiệp - một tổ chức liên kết giữa trung tâm/viện nghiên cứu, trường đại học, chính quyền và các doanh nghiệp khởi sự (hay các nhóm, cá nhân có ý định thành lập doanh nghiệp). Tổ chức này có mục đích tạo một “lồng ấp”, một môi trường “nuôi dưỡng” các doanh nghiệp khởi sự trong một thời gian nhất định để các đối tượng này có thể vượt qua những khó khăn ban đầu, khẳng định sự tồn tại và phát triển như những doanh nghiệp độc lập.
Có khá nhiều cách định nghĩa về TBI đang tồn tại hiện nay trên thế giới. Theo Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) thì “TBI là một tổ chức tiến hành một cách hệ thống quá trình tạo dựng các doanh nghiệp mới, cung cấp cho các doanh nghiệp này một hệ thống toàn diện và thích hợp các dịch vụ để hoạt động thành công”. UNIDO cho rằng TBI là công cụ hữu hiệu để giúp chuyển giao công nghệ và hợp tác giữa lĩnh vực nghiên cứu khoa học với lĩnh vực công nghiệp. Nó giúp giải quyết vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế địa phương, thông qua việc cải thiện và tăng cường hoạt động kinh doanh. TBI là công cụ cơ bản để thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp mới khởi sự, trên cơ sở đó thúc đẩy phát triển công ăn việc làm và chuyển giao công nghệ. Ủy ban châu Âu (EU) thì cho rằng: “TBI là một khu vực có kết cấu hạ tầng, trong đó các doanh nghiệp mới khởi sự hoạt động tại một diện tích hạn chế, nhưng có thể cải tạo và mở rộng được theo kiểu các mô đun, sử dụng chung các dịch vụ liên quan đến hạ tầng cơ sở, quản lý, ban thư ký và các nhân viên giúp việc”. Hiệp hội Vườn ươm Doanh nghiệp Mỹ (NBIA) định nghĩa: “Vườn ươm doanh nghiệp là sự hỗ trợ doanh nghiệp tự tổ chức công tác quản lý, tiếp cận với tài chính và tiếp xúc toàn diện với các dịch vụ kinh doanh quan trọng hoặc hỗ trợ kỹ thuật”.
Ngoài các đặc điểm nêu trên, các vườn ươm còn có thêm nhiều vai trò khác nữa, không chỉ phục vụ cho các doanh nghiệp mới khởi nghiệp đóng trong vườn ươm, mà còn hỗ trợ cho cả cộng đồng địa phương. Về cơ bản, vườn ươm tạo ra 3 loại giá trị gia tăng: Hỗ trợ các doanh nghiệp trong giai đoạn mới bắt đầu thành lập, trong quá trình trưởng thành và lớn mạnh trong thị trường; đóng góp cho sự phát triển kinh tế địa phương và vùng; bản thân vườn ươm cũng là một doanh nghiệp dịch vụ.
Phát triển vốn mạo hiểm để tài trợ cho doanh nghiệp công nghệ cao
Vốn đầu tư mạo hiểm (ĐTMH) được thừa nhận là một giải pháp tốt trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Điều đó đã được thực tế chứng minh rất rõ ràng. Mỹ là nước đã có lịch sử lâu năm về phát triển vốn ĐTMH. Chính nguồn vốn này đã tạo ra một số “người khổng lồ” hiện nay. Một số quốc gia châu Á gần đây đã thể hiện sự nổi bật của mình từ việc định hình và phát triển vốn ĐTMH, trong đó Ấn Độ là một địa chỉ mới đầy tiềm năng cho hoạt động ĐTMH với mục tiêu phát triển công nghệ phần mềm nước này. Bên cạnh đó, nhằm hoàn thiện thị trường tài chính trong nền kinh tế hiện đại, rất cần có thêm những định chế tài chính trung gian như quỹ ĐTMH. Chính phủ là tác nhân có ảnh hưởng đáng kể trong việc định hướng và phát triển loại hình ĐTMH và sự lưu chuyển của vốn mạo hiểm. ĐTMH có những ưu thế như:
• Tiếp cận nguồn vốn tín dụng dưới bất kỳ hình thức nào là điều khó khăn. Yêu cầu về tài sản đảm bảo cũng như các quy định trong thẩm định khác đã không thể tạo cơ hội cho các công ty, đặc biệt khi người sáng lập công ty chỉ mới có ý tưởng là “tài sản” chính yếu. Trong trường hợp này, các phương pháp đánh giá và mục tiêu đánh giá đầu tư với các công ty tư nhân của các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm phù hợp hơn các phương pháp và mục tiêu của ngân hàng.
• Hình thức ĐTMH là nắm giữ cổ phần, tham gia chia sẻ thành công nếu công ty phát đạt, song cũng gánh chịu rủi ro nếu thất bại. Chính điều này đảm bảo rằng, những khuyến khích đối với các nhà đầu tư và các doanh nhân khởi nghiệp là thống nhất với nhau. Đây là một đặc trưng của hoạt động đầu tư ở Mỹ - một quốc gia thành công trong lĩnh vực này.
Tại Việt Nam , một số quỹ ĐTMH đã có mặt và hoạt động trong vài năm gần đây. Hoạt động của họ đã có đóng góp nhất định vào sự phát triển nền kinh tế nói chung thông qua việc đầu tư vào các công ty, doanh nghiệp và tác động tích cực đến sự phát triển của thị trường chứng khoán. Chính phủ có thể tác động bằng một loạt biện pháp trực tiếp và gián tiếp. Bằng cách đầu tư vào quỹ, Chính phủ đóng vai là người cung cấp “vốn mồi” cho quỹ ĐTMH, như đã từng làm cho quỹ hỗ trợ phát triển. Hoặc cũng có thể đầu tư trực tiếp vào các dự án tiềm năng mà các tổ chức hoặc cá nhân không thể hoặc không có khả năng tài trợ. Việc làm này có ý nghĩa như việc cung cấp vốn hạt giống cho dự án và được đánh giá là mở ra triển vọng trong việc tạo ra việc làm và thúc đẩy tăng trưởng.








