Phát thải khí nhà kính và nguyên nhân tăng nồng độ khí nhà kính
Năm 2006, nồng độ CO 2đo được 381,2 phần triệu (ppm), nồng độ CH 41782 (ppb) và nồng độc N 2O là 320, 1ppb. So với năm 1850, các con số này đã vượt tương ứng 136%, 255% và 119% (bảng 5.1).
Giai đoạn 1990 đến nay, thống kê về số lượng phát thải khí nhà kính phân theo các nước do ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) tính toán và thu nhập được thể hiện trong bảng.
Bảng 1: Nồng độ khí nhà kính trong khí quyển năm 2006
CO 2(ppm) | CH 4(ppb) | N 2O (ppb) | |
Nồng độ trung bình toàn cầu năm 2006 | 381,2 | 1782 | 320,1 |
Lượng tăng so với năm 2005 | 2,0 | -1 | 0,8 |
Lượng tăng trung bình năm trong 10 năm qua | 1,93 | 2,4 | 0,76 |
Tỷ lệ so với năm 1850 | 136% | 255% | 119% |
Nguồn: Tạp chí “Thông tin biến đổi khí hậu” - Số 1, ONRE, 2008
Đối với các nước đang phát triển, tổng lượng phát thải không bao gồm khí phát sinh trong sử dụng đất và lâm nghiệp, giảm tới 37% từ 5,908 Gt CO 2tương đương năm 1992 xuống còn 3,724 Gt CO 2tương đương năm 2006. Nếu bao gồm việc sử dụng đất và lâm nghiệp thì trong cùng khoảng thời gian trên, tỷ lệ này giảm 35%. Từ năm 2000 đến 2006, phát thải khí nhà kính của các nước tăng 7,4% không bao gồm sử dụng đất và lâm nghiệp và 5,5% nếu tính cả lượng khí phát sinh này. Từ năm 2005 đến năm 2006, tỷ lệ tương ứng này giảm còn 3,1% và 6,5%.
Đối với các nước phát triển, tổng phát thải bao gồm việc sử dụng đất làm lâm nghiệp tăng từ 13,006 Gt CO 2tương đương năm 1990 tới 14,296 Gt CO 2tương đương vào năm 2006, tương ứng tăng 9,1%. Trong giai đoạn 2000 và 2006, phát thải khí nhà kính không tính đến sử dụng đất và lâm nghiệp. Từ năm 2005 đến năm 2006, tỷ lệ này giảm tương ứng còn 0,9% và 1,2%.
Nhiệt độ trái đất đã tăng khoảng 0,5 0C từ cuối thế kỷ XIX. Người ta đã quan sát được nhiệt độ không khí bề mặt của những năm nóng nhất thuộc giai đoạn 1980 – 2000. Tốc độ gia tăng và mức thay đổi nhiệt độ cuối cùng sẽ được quyết định bởi CO 2, CH 4, NO 2và khí nhà kính khác. Hiện nay, nồng độ CO 2trong khí quyển đóng góp khoảng 70% hiệu ứng nhà kính Trái đất.
Để tiên đoán các ảnh hưởng của khí hậu do CO 2, phần lớn những mô phỏng phức tạp như những “mô hình lưu thông tổng quát 3 chiều” (3-dimensiol general circulation models – GCM), mô phỏng nhiều dòng chuyển động khối phức tạp và các quá trình khác tham gia vào sự lưu thong khí quyển. Một phỏng đoán khác cho rằng nhiệt độ Trái đất sẽ tăng từ 1,5 - 3 0C đến năm 2010 so với năm 1990.
Ở quy mô hành tinh, tác động biến đổi khí hậu thể hiện rõ ở xu thế tăng của nhiệt độ bề mặt trái đất, trên các đỉnh núi cao, dẫn đến hiện tượng nước biển dâng và “biển tiến”. Ở quy mô khu vực, biến đổi khí hậu đã tác động mạnh mẽ đến các thiên tai hiện hữu, với tính chất biến đọng mạnh hơn, cực đoan hơn, bất thường hơn cả về tần suất và cường độ. Biểu hiện của những hiện tượng cực đoan này càng rõ hơn vào các thời kỳ ENSO – El Nino Southern Oscillation. Ví dụ, ở khu vực Đông Nam Á nói chung, Việt Nam nói riêng, sự thiếu hụt lượng mưa dẫn đến hiện tượng hạn hán và cháy rừng…., vào những năm El Nino; tần suất bão, áp thấp nhiệt đới tăng lên cùng với sự tương tác phức tạp giữa các hệ thống thời tiết khác nhau dẫn đến mưa lớn trên diện rộng gây lũ lụt, sạt lở đất… vào các thời kỳ La Nina. Điều đó có thể nhận thấy qua một số minh chứng gần đây như sự xuất hiện hoạt động bất thường của bão, xoáy thuận nhiệt đới (cường độ mạnh hơn, di chuyển phức tạp, khó dự báo), điển hình là cơn bão
Ở quy mô hành tinh, tác động biến đổi khí hậu thể hiện rõ ở xu thế tăng của nhiệt độ bề mặt trái đát, trên các đỉnh núi cao, dẫn đến hiện tượng nước biển dâng và “biển tiền”. Ở quy mô khu vực, biến đổi khí hậu đã tác động mạnh mẽ đến các thiên tai hiện hữu, với tính chất biến động mạnh hơn, cực đoan hơn, bất thường hơn cả về tần suất và cường độ. Biểu hiện của những hiện tượng cực đoan này càng rõ hơn vào các thời kỳ ENSO – El Nino Southern Oscillation. Ví dụ, ở khu vực Đông Nam Á nói chung, Việt Nam nói riêng, sự thiếu hụt lượng mưa dẫn đến hiện tượng hạn hán và cháy rừng…., vào những năm El Nino; tần suất bão, áp thấp nhiệt đới tăng lên cùng với sự tương tác phức tạp giữa các hệ thống thời tiết khác nhau dẫn đến mưa lớn trên diện rộng gây lũ lụt, sạt lở đất… vào các thời kỳ La Nina. Điều đó có thể nhận thấy qua một số minh chứng gần đây như sự xuất hiện hoạt động bất thường của bão, xoáy thuận nhiệt đới (cường độ mạnh hơn, di chuyển phức tạp, khó dự báo), điển hình là cơn bão Katrina (23 – 31/08/2005) đổ bộ vào Mỹ, hoặc những cơn bão có quỹ đạo thất thường, ít khi đi vào dải cực Nam của Việt Nam như bão Linda (31/10 – 03/11/1997), bão Duria (26/11 – 5/12/2006), hiện tượng nắng nóng bất thường ở châu Âu, mưa cực lớn hoặc sự dịch chuyển của các tâm mưa lớn, sự thiếu hụt lượng mưa dẫn đến khô hạn, tần suất xuất hiện các hiện tượng thời tiết nguy hiểm (tố, lốc, vòi rồng…) tăng lên. Sự nguy hiểm của những biến động này là từ những thiên tai cực đoan có thể dẫn đến thảm hoạ khôn lường. Do đó, trong những năm gần đây, trên thế giới và ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về bài toán khí hậu cực đoan hay các hiện tượng khí hậu cực trị (Extreme Climate Event – ÊC) trong mối quan hệ với biến đổi khí hậu.
Về khái niệm “Hiện tượng khí hậu cực đoan” và “biến đổi khí hậu”, báo cáo lần thứ tư “Fourth Assesment Report – AR4 của Tổ chức Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (The intergovenmental Panel on Climate Change – IPCC) đã định nghĩa như sau:
Trong 12 năm gần đây, từ 1995 – 2006, có 11 năm trừ năm 1996 là những năm nóng nhất kể từ năm 1950. Biến đổi của các cực trị nhiệt độ phù hợp với sự nóng lên toàn cầu. Số liệu qún trắc cho thấy, số ngày đông giá giảm đi ở hầu hết khắp các vùng vĩ độ trung bình, số ngày cực nóng (10% số ngày hoặc đêm nóng nhất ) tăng lên, số ngày cực suất và thời gian hoạt động của sóng nóng tăng lên ở nhiều địa phương khác nhau, nhất là thời kì đầu nửa cuối thế kỷ XX. Tồn tại sự tương quan chặt chẽ giữa những ngày khô hạn và nền nhiệt độ mùa hè trên các vùng lục địa nhiệt đới. Sự kiện mưa lớn tăng lên ở nhiều vùng lục địa từ khoảng sau năm 1950, thậm chí ở cả những nơi có tổng lượng mưa giảm. Người ta đã quan trắc thấy những trận mưa kỷ lục hiếm thấy (1 năm trong 50 năm).
Các nhà khoa học cho biết, trong vòng 100 năm trở lại đây, Trái đất đã nóng lên khoảng 0,6 0C. Năm 2006 là năm nóng nhất, nhiệt độ trung bình ở Anh cao hơn so với bất cứ thời điểm nào kể từ năm 1659. Các dấu hiệu biến đổi khí hậu xuất hiện trên thế giới hiện là:
- Mùa đông ít tuyết ở khu vực trượt tuyết thuộc dãy Alpơ
- Hạn hán triền miên ở châu Phi.
- Các sông băng trên núi tan chảy nhanh nhất trong vòng 5.000 năm qua.
Năm 2006, ở khắp mọi nơi trên thế giới đều thấy những tác động phản hồi do nhiệt độ tăng gây hậu quả xấu.
Năm 2007, Uỷ ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu của LHQ (IPCC) và các nhà khoa học lo ngại rằng, những tác động phản hồi sẽ bắt đầu đẩy khí hậu quá ngưỡng giới hạn an toàn mà không dễ gì khắc phục. Có hai loại tác động phản hồi giữ vai trò điều tiết khí hậu trái đất trong tương lai.
Các đại dương đang có xu thế ấm lên. Theo tính toán 1/3 các vùng đại dương rộng lớn trên thế giới (18 trong số 64 khu vực) đang có xu thế ấm lên với tốc độ tăng từ 2-4 lần so với mức trung bình được ghi nhận trước đây. Điều đó dẫn đến gia tăng rủi ro cho đời sống ở biển và ngư nghiệp. Do đánh bắt quá mức, ô nhiễm vùng ven biển, suy thoái chất lượng nước cùng với biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu đang gây áp lực lớn đến hệ sinh thái (HST) biển. Điều này đã được Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) cảnh báo tại Hội nghị quốc tế và Đại dương diễn ra tại Hà Nội, tháng 4/2008. Theo thống kê của UNEP thì gần như không có khu vực nào còn nguyên sơ và hơn 40% đại dương trên thế giới bị ảnh hưởng nặng do hiện tượng trên. Những khu vực bị con người tác động mạnh nhất là biển Bắc, các vùng biển Tây Nam Trung Quốc, biển Ca-ri-bê, Địa Trung Hải, biển Đỏ, Vịnh Gulf, biển Bering cùng với các nhà nghiên cứu cho rằng, các đại dương nằm ở vùng Cực ít bị ảnh hưởng, nhưng các dải băng tan chảy sẽ khiến chúng dễ bị tổn thương hơn.
Theo các kết quả nghiên cứu, biến đổi khí hậu có thể làm tăng mức độ nghiêm trọng các dịch bệnh ở đại dương làm suy giảm sự lành mạnh của các hệ sinh thái biển, phá huỷ tài nguyên (gần một nửa số rạn san hô trên thế giới bị thiệt hại nặng). Ngoài ra, còn có những lo ngại khác đối với cỏ biển, rừng ngập mặn, núi ngầm dưới biển, rạn san hô và thềm lục địa. Các thuỷ vực ấm lên bất thường có thể còn gây ra các hiện tượng “tẩy trắng” san hô – nơi các vi tảo sống trong các mô của san hô và cung cấp lượng lớn chất dinh dưỡng. Trong trường hợp nghiêm trọng nhất, có thể tiêu diệt toàn bộ cả cụm san hô. John Bruno (2007) nhấn mạnh, ít nhất một nửa số rạn san hô đang tồn tại trên thế giới đã biến mất trong nửa sau của thế kỷ XX. Bruno so sánh các rạn san hô với những cánh rừng, trong đó có cả hai đều tạo ra hệ sinh thái phức hợp là nơi cư trú của nhiều hải sản. Cho đến nay, trên toàn cầu san hô đang mất dần với tốc độ khoảng 1% năm, gần 2 lần tốc độ biến mất của rừng mưa nhiệt đới.








