Phát huy vai trò của phản biện xã hội
Ở Việt Nam, khái niệm phản biện xã hội được chính thức đưa vào Văn kiện Đại họ Đảng toàn quốc lần thứ X (năm 2006): “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”. Có thể nói, đây lại thêm một bước đột phá chứng tỏ dân chủ luôn luôn được đề cao trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta.
Tiếp theo, tại Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011), Đảng ta đã khẳng định: “Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”.
Hiểu một cách đơn giản nhất, phản biện chính là việc dùng lý lẽ, chứng cứ, lập luận xung quanh một vấn đề nào đó, giúp cho vấn đề được phản biện đầy đủ hơn, chính xác hơn. Phản biện không chỉ hướng tới một cá nhân, một tổ chức, mà rộng hơn còn hướng tới cả cộng đồng xã hội. Phản biện trước hết được diễn ra trong phạm vi nghiên cứu khoa học, và cả trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ cách hiểu phản biện như trên ta có thể hiểu phản biện xã hội là phản biện của cộng đồng, của xã hội. Mục đích của phản biện xã hội là hướng tới đóng góp, bổ sung, điều chỉnh cho những chủ trương, chính sách, đề án, dự án, mô hình được hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Người lãnh đạo, không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình”. Chính hoạt động phản biện xã hội góp phần làm cho các khuynh hướng trở nên khoa học hơn, phù hợp hơn, đúng đắn hơn, gần với thực tiễn đời sống hơn.
Phản biện xã hội không đồng nhất với dư luận xã hội, với trưng cầu dân ý. Trưng cầu dân ý là hỏi dân; còn dư luận xã hội không đòi hỏi lý lẽ, lập luận, chứng cứ cụ thể. Phản biện xã hội là một hoạt động khoa học đòi hỏi phải có chứng cứ, lập luận, lý lẽ chặt chẽ, từ đó giúp chủ thể đưa ra chủ trương, chính sách phù hợp, sát với thực tiễn, vì lợi ích của quần chúng nhân dân và sự ổn định phát triển của cộng đồng xã hội, của đất nước.
Phản biện xã hội vừa là một hoạt động khoa học, vừa là một hoạt động mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Phản biện và Phản biện xã hội là một quyền tự do được xây dựng trên cơ sở quyền tự do ngôn luận (ở đây nhấn mạnh đến việc phản biện có tính khoa học, có tính văn hoá ), chủ thể tham gia phản biện và phản biện xã hội không phải là khả năng riêng của các nhà trí thức, các nhà khoa học, các bậc hiền tài mà của mọi người (tất nhiên người tham gia phản biện phải có trình độ, có hiểu biết, có khả năng). Nếu hoạt động trưng cầu dân ý đi tìm sự đồng thuận một cách đơn giản, thì hoạt động Phản biện xã hội hướng tới sự đồng thuận có chất lượng khoa học, đem tới sự hài hoà lợi ích của các chủ thể, của cộng đồng, xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Đem các ý kiến khác nhau để so sánh kỹ, phân tích kỹ các nội dung của các tầng lớp xã hội có các ý kiến đó.Tìm ra mối mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau. Xem rõ cái nào đúng, cái nào sai. Chọn lấy ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại để nâng cao dần dần sự giác ngộ của dân chúng” và “So đi sánh lại, phân tích rõ ràng là cách làm việc có khoa học. Mỗi công việc, chúng ta đều phải làm như thế. Làm như thế mới tránh khỏi sai lầm”. Một khi có trao đổi thấu tình đạt lý để đạt tới sự đồng thuận trong xã hội thì mọi chủ trương, chính sách, mọi đề án, dự án… mới thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống thành công.
Thực tế hoạt động phản biện xã hội ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, hoạt động PBXH ở Việt Nam diễn ra khá mạnh mẽ, nhất là từ khi thuật ngữ này chính thức được đề cập trong Nghị quyết của Đảng. Hoạt động PBXH diễn ra ngay trong các kỳ họp Quốc hội với các thành viên của Chính phủ; các tham luận, các ý kiến trao đổi nhằm xây dựng đi tới ban hành các Nghị quyết, Nghị định, các Bộ luật, đề án…).
Bên cạnh đó, phản biện xã hội còn thể hiện ở các bản kiến nghị, các kế sách bằng văn bản của các tổ chức, tập thể, cá nhân trong xã hội gửi đến các cơ quan chức năng đề cập tới một chính sách, một đề án, dự án nào đó do Chính phủ, các Bộ, ngành xây dựng. PBXH thể hiện ở các bài viết, các phóng sự, các cuộc trao đổi bàn tròn (được thể hiện trên báo viết, truyền hình, trên các mạng điện tử…); ý kiến phản biện dưới hình thức này cũng có nhiều đóng góp hoặc ủng hộ tích cực đối với một số chính sách, đề án, dự án được đưa ra. Thực tế đã có những chính sách, đề án, dự án nhờ có sự phản biện khoa học của các lực lượng xã hội nên đã được xem xét và điều chỉnhlại cho phù hợp hơn, thậm chí cho dừng lại.
Có thể thấy rằng khi dân chủ ở nước ta ngày càng phát triển rõ nét, thực chất, đây là điều kiện thuận lợi cho các ý kiến phản biện và PBXH được trình bày qua nhiều hình thức, nhiều kênh khác nhau, từ đó tạo nên những hiệu ứng xã hội mạnh mẽ mà mục tiêu đạt được là tìm tới sự đồng thuận giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng nhân dân, giữa chủ trương, chính sách với lợi ích của quảng đại quần chúng lao động. Việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, của mọi tổ chức chính trị - xã hội, của các cơ quan ban ngành, địa phương vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (trong đó có việc kéo dài thêm thời gian lấy ý kiến đóng góp); đặc biệt với việc chưa thông qua Luật Đất đai sửa đổi tại kỳ họp thứ năm Quốc hội khoá XIII đã cho thấy Đảng, Nhà nước ta rất coi trọng các ý kiến đóng góp (các phản biện) của mọi chủ thể trong xã hội. Một khi chưa đi tới sự đồng thuận, chưa thực sự vì lợi ích của quốc gia, của quần chúng nhân dân thì chưa thông qua, chưa ban hành. Đây là việc làm, là hành động phản ánh đường lối dân chủ đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, quyền dân chủ của nhân dân được phát huy, khẳng định. Điều này đúng với mục tiêu chúng ta đã và đang hướng tới xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Song, khách quan công bằng mà nói, bên cạnh quyền dân chủ thông qua các hoạt động PBXH đã được cải thiện có chất lượng (đóng góp được nhiều cho sự bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi, thay thế nhiều chủ trương, chính sách của các cơ quan chức năng trong hệ thống Đảng, Nhà nước), thì chúng ta vẫn chưa thực sự thấy được hoạt động PBXH diễn ra rộng khắp ở mọi khu vực, tại mọi địa phương, đơn vị. Ở không ít nơi, không ít hoạt động PBXH mang tính dân chủ hình thức, phổ biến mang tính đại diện nên hiệu quả của PBXH chưa cao. Ở nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương hiện nay, bầu không khí phản biện và PBXH khá trầm lắng. Trong nhiều hội nghị, diễn đàn, cuộc họp, có tình trạng là ngoài ý kiến của thủ trưởng thì không có ý kiến nào khác, hoặc ý kiến theo chiều bổ sung, làm rõ thêm ý kiến của thủ trưởng. Bên cạnh dó, cũng có tình trạng nhiều ý kiến, bài tham luận (phản biện) mang tính cực đoan, chủ quan, quá khích, không có cơ sở khoa học, thiếu tính xây dựng v.v…
Thời gian qua, ghi nhận rõ nét nhất là hoạt động PBXH ở Việt Nam thông qua kênh báo chí, truyền hình với nhiều hình thức khác nhau (bài viết, phóng sự, phỏng vấn, toạ đàm, chất vấn…) đang đạt được nhiều kết quả tích cực. Lực lượng tham gia phản biện là các nhà báo, nhà khoa học, giới trí thức, các nhà quản lý, các chuyên gia trong từng lĩnh vực… Họ có kiến thức hiểu biết chuyên sâu, lập luận chặt chẽ, vì thế ý kiến phản biện của họ đi sát vấn đề, mang tính thuyết phục cao. Những ý kiến phản biện như thế đã góp phần quan trọng vào việc hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách, xây dựng nhiều mô hình, đề án phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam gắn với thực tiễn và đảm bảo lợi ích của đông đảo người dân.
Tuynhiên, không phải mọi ý kiến phản biện trên báo chí, truyền hình đều đúng, trúng, thuyết phục (đó là chưa kể có ý kiến, bài viết mang tính tiêu cực có thể làm ảnh hưởng tới lợi ích chung của đấtnước), hoặc có ý kiến phản biện, bài viết “phản biện” theo hướng tung hô một chiều với những lập luận xáo rỗng, xu nịnh. Những “phản biện” như vậy không chỉ mang tính hình thức mà thậm chí còn rấtnguy hại.







