Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 20/05/2008 16:03 (GMT+7)

Phát huy vai trò của ngành thuỷ sản trong sự nghiệp phát triển kinh tế biển và bảo vẹ chủ quyền trên biển Việt Nam

Vị trí của ngành thuỷ và vai trò của ngư dân

Chủ trương gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng trên biển là hết sức đúng đắn, mang tính nhất quán trong tư tưởng chỉ đạo của Đảng xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, mang tính thực tiễn trong bối cảnh của một khu vực địa chính trị cực kỳ nhạy cảm. Đối với một quốc gia còn nghèo, thì để bảo đảm sức mạnh an ninh quốc phòng trên biển càng cần kết hợp với phát triển kinh tế biển. Nhưng quá trình triển khai vừa qua thiếu cụ thể, còn phân tán, thiếu đầu tư tương xứng, hoặc đầu tư chưa hiệu quả để nhanh chóng xây dựng một nền quốc phòng toàn dân trên biển chính quy, hiện đại thông qua một nền kinh tế biển hiệu quả và bền vững. Đặc biệt còn thiếu các giải pháp cụ thể và mô hình ra biển thử nghiệm mang tính liên hoàn trên cơ sở gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm an ninh, quốc phòng trên biển và dải ven biển.

Phát triển mạnh kinh tế biển và bảo đảm tốt an ninh, quốc phòng trên vùng biển cũng đòi hỏi phải huy động tối đa lực lượng lao động của các ngành kinh tế biển mà bản chất của họ rất khác nhau. Trên thực tế, biển chỉ là con đuờng đi qua của các thuỷ thủ, là nơi làm việc tập trung dài ngày của công nhân giới hạn trên các giàn khoan dầu khí, là nơi vãng lai ngắn ngày của du khách ở ven biển và một số đảo ven bờ, nhưng lại là không gian của ngư dân. Phát triển một nền kinh tế biển mạnh theo đúng nghĩa của nó đòi hỏi không chỉ giải quyết hoặc chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần, mà điều không kém phần quan trọng là giải quyết cho được các vấn đề xã hội bức xúc của người lao động biển nói cung và lao động nghề cá nói riêng, cũng như bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn lợi biển.

Có thể nói, trong số những lợi ích mà biển mang lại, kinh tế thủy sản chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, đan xen giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài theo một ý nghĩa đầu đủ của nó. Vì thuỷ sản là nguồn tài nguyên tái tạo và kinh tế thuỷ sản phát triển dựa trên nền tảng của các hệ sinh thái, cho nên có thể khẳng định còn biển, còn thuỷ sản. Đối với một nước đi lên từ xuất phát điểm thấp của nền kinh tế, còn nghèo nàn và lạc hậu như nước ta, thì thuỷ sản lại càng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và cải thiện sinh kế cho cộng đồng dân cư sống ở các vùng nông thôn ven biển và hải đảo.

Do đặc tính nghề nghiệp và đặc thù của nghề cá nhân dân (nghề cá nhỏ), ngư dân có phạm vi hoạt động nghề nghiệp rộng trên toàn vùng biển và ven biển (hàng ngày có khoảng 10.000 tàu hoạt động trên khắp vùng biển). Ngư dân là lực lượng cực kì quan trọng trực tiếp đóng góp cho sự hiện diện dân sự của Việt Nam trên vùng biển Tổ quốc. Tuy nhiên, ngư dân luôn sống và làm việc trong môi trường khắc nghiệt và đầy rủi ro, luôn chịu tác động của thiên tai. Nhà nước cũng phải có trách nhiệm bảo đảm an toàn cho họ trước các rủi ro thiên tai.

Vì thế, phát triển thuỷ sản, ngoài ý nghĩa đóng góp cho nền kinh tế quốc dân, bảo đảm an ninh quốc phòng trên biển còn là một hành động chiến lược thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng và Nhà nước ta đối với dân. Đó là điều mà Thủ tướng Chính phủ đã nói khi đề cập đến vai trò của ngành thuỷ sản (2001): “Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển thuỷ sản và cần phải phát triển thuỷ sản nhanh hơn, mạnh hơn… Mục tiêu cuối cùng của thuỷ sản là để nâng cao lợi thế cạnh tranh của đất nước và để phục vụ lợi ích người lao động.”.

Trong số các ngành kinh tế biển, vừa qua thuỷ sản không chỉ giữ vững là một ngành kinh tế biển truyền thống, mà còn phát triển thành một ngành kinh tế sản xuất hàng hoá lớn và đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian tới, phát huy lợi thế của một ngành kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên tái tạo, có lực lượng lao động và dự trữ lao động dồi dào, có khả năng bám biển dài ngày và có mặt trên khắp vùng biển. Họ là lực lượng bổ sung cho các hoạt động kinh tế biển khác và cũng là lực lượng không thể thay thế cho một thế trận “chiến tranh nhân dân” trên Biển Đông, góp phần dân sự hoá các hoạt động trên biển, gắn thuỷ sản với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc phòng trên vùng biển của Tổ quốc.

Nước ta đi lên từ một nước nghèo, vùng ven biển có tỷ lệ nghèo còn cao, cho nên các ưu tiên phát triển thời gian tới vẫn phải hướng vào việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thuỷ sản vừa là ngành kinh tế phát triển trên nền tảng của các hệ sinh thái tự nhiên, có khả năng tái tạo, vừa là một trong những ngành kinh tế gắn liền với sinh kế của người dân, có khả năng tốt nhất đối với việc cải thiện sinh kế người nghèo và cuộc sống của người dân ở các vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Vì thế, giải quyết các vấn đề xã hội cho ngư dân, phát triển các mô hình sản xuất thuỷ sản dựa vào người dân giúp họ thoát nghèo, khuyến khích và tạo điều kiện cho họ tham gia quản lý nghề cá ở địa phương là một nhiệm vụ chính trị quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đang tập trung lãnh đạo nhằm thực hiện chiến lược toàn diện xoá đói giảm nghèo, cũng như tăng cường phát triển kinh tế ở địa phương, kết hợp bảo đảm an sinh xã hội và an ninh vùng biển. Theo cách tiếp cận trên, thời gian tới ngành thuỷ sản phải chú trọng giải quyết đồng bộ cả ba vấn đề ngư nghiệp, ngư dân và ngư trường trong quá trình phát triển kinh tế thuỷ sản gắn với bảo đảm an ninh, quốc phòng.

Đóng góp của kinh tế thuỷ sản

Thời gian qua, kinh tế thuỷ sản nước ta tăng trưởng liên tục, nhanh và khá ổn định cả về sản lượng (tăng bình quân hàng năm là 5 – 7%) và giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản (tăng hơn 250 lần so với năm 1981). Năm 2006, tổng sản lượng thuỷ sản đạt gần 3,7 triệu tấn, chủ yếu khai thác từ biển (khoảng 1,8 triệu tấn) và nuôi trồng thuỷ sản nước lợ (trên 1 triệu tấn). Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 đạt mốc 1 tỷ USD/năm, 2002 đạt mốc 2 tỷ USD/năm, năm 2005 đạt mốc 2,5 tỷ USD/năm và năm 2006 gần đạt mốc 3,5 tỷ USD, dự kiến năm 2007 đạt xấp xỉ mốc 4,0 tỷ USD, đứng vững trong tốp đứng đầu đất nước về kim ngạch xuất khẩu và tiếp tục giữ vững vị trí 10 nước xuất khẩu thuỷ sản đứng đầu thế giới.

Sự tăng trưởng “ngoạn mục” như vậy đã diễn ra trong cả quá trình, đã bám sát vào nhu cầu thực tiễn của thị trường và sự chỉ đạo hiệu quả của Chính phủ trong từng thời kì kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, sự điều chỉnh linh hoạt trong chỉ đạo sản xuất của ngành từ Trung ương đến địa phương. Đặc biệt, giá trị thuỷ sản làm ra thấm đẫm mồ hôi, công sức vật lộn với biển cả, với thương trường của những người lao động thuỷ sản, của bà con ngư dân, của người nuôi trồng thuỷ sản và các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thuỷ sản. Tuy nhiên, thành tích đạt được về mặt kinh tế mới chỉ là phần nổi của “tảng băng”, phần chìm ít thấy nhưng không kém phần quan trọng là những đóng góp về mặt xã hội, về mặt bảo đảm an ninh chủ quyền vùng biển của ngành thuỷ sản ở ven biển và trên biển.

Trước hết, thuỷ sản là ngành kinh tế đi đầu thực hiện cơ chế tự cân đối, tự trang trải và hội nhập kinh tế quốc tế ngay từ những năm 80 của thế kỷ trước. Ngành cũng đi đầu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của Chính phủ: từ lúa sang tôm, nuôi thuỷ sản biển.

Thứ hai là đã thu hút được nhiều thành phần kinh tế và nhiều lao động nghèo tham gia, nên đã giải quyết được công ăn việc làm cho khoảng 4 triệu lao động, và nhiều hộ dân đã thoát đói nghèo. Điều này càng có ý nghĩa khi so với cả nước, trong số gần 20 triệu dân sống ở 115 huyện ven biển có cuộc sống gắn bó với nguồn lợi biển vẫn còn 14% (khoảng 208 xã ) cộng đồng dân cư sống ở mức nghèo đói nhất và 6% thiếu thốn cơ sở hạ tầng cơ bản ở mức cộng đồng. Đến năm 2004, theo Quyết định số 106/2004/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ vẫn còn 157 xã bãi ngang ven biển và hải đảo đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ nghèo đói cao đã ảnh hưởng rất lớn đến việc đầu tư phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế biển và hải đảo.

Thứ ba là từ một ngành sản xuất còn thủ công, lạc hậu, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô…đến nay đã có khoảng 470 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu quy mô công nghiệp và sản phẩm thuỷ sản đã có mặt ở thị trường 108 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với đòi hỏi cao về chất lượng. Thị trường mở mang, mức độ công nghiệp hoá ngày càng cao là điều kiện cơ bản để thuỷ sản nước ta trở thành một ngành sản xuất hàng hoá thật sự và trên thực tế một nghề cá thương mại (nghề cá lớn) đã hình thành bên cạnh nghề cá cộng đồng (nghề cá nhỏ). Thêm nữa, chính yếu tố thị trường đã trở thành động lực cuốn hút và làm nảy sinh yêu cầu thúc đẩy hoạt động của các lĩnh vực sản xuất thuỷ sản. Một chu trình sản xuất khép kín “từ biển/ao nuôi đến bàn ăn” đã hình thành và đang từng bước hoàn thiện, đáp ứng các đòi hỏi mới của thời buổi làm ăn kinh tế thị trường.

Thứ tư là, sau pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (1989), Luật Thủy sản đã có hiệu lực tháng 7 – 2004 cùng với hàng loạt các chính sách được ban hành hoặc sửa đổi đã giúp cho công tác quản lý ngành Thuỷ sản có những thay đổi về chất, phù hợp với đặc thù ngành, vừa thích ứng với nhu cầu ngày một cao của thời mở cửa để hội nhập.

Thứ năm, ngành thuỷ sản cũng tham gia thực hiện công ước quốc tế về Luật Biển, cam kết thực hành nghề cá có trách nhiệm và nghề cá bền vững, ký nhiều hiệp định và các bản ghi nhớ hợp tác nghề cá với nhiều nước, đã đóng góp tích cực và trực tiếp trong việc phân định vịnh Bắc Bộ và hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc.... Chính vì thế, thuỷ sản nước ta ngày càng có uy tín và vị trí quan trọng trong nghề cá khu vực và thế giới.

Những bài học thực tế nổi bật từ kết quả thực hiện kế hoạch phát triển của ngành thuỷ sản thời gian qua là: ổn định tăng trưởng luôn gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả và bền vững. Điều chỉnh linh hoạt và hợp lý trong phân kỳ tốc độ tăng trưởng của từng năm kế hoạch, theo vùng, miền. Chú trọng chiến lược sản phẩm và đầu tư hợp lý đồng bộ theo sản sách phù hợp với yêu cầu trong các cam kết gia nhập WTO của Vịêt Nam . Mặc dù vậy, quy mô phát triển kinh tế thuỷ sản chưa tương xứng với tiềm năng mà biển và vùng nước lợ đem lại, còn chiếm tỷ trọng thấp so với các quốc gia có biển khác trên thế giới.

Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thuỷ sản trên biển.

Đến năm 2020, thuỷ sản nước ta phấn đấu trở thành một ngành sản xuất hàng hoá lớn, tập trung, một nghề cá thương mại với sự coi trọng ngang bằng giữa thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa. Nhưng đội tàu ngư dân đánh bắt trên biển hiện nay có số lượng quá nhiều (trên 90.000 chiếc) và phổ biến là tàu thuyền nhỏ (80% tàu dưới 45CV), cho nên không đủ lớn để tiến ra biển xa và chưa tương thích với nhu cầu phát triển theo hướng làm ăn lớn nói trên.

Phát triển trên nền tảng của một nghề cá quy mô nhỏ, quen lối làm ăn nhỏ lẻ, quanh quẩn ở sân nhà, nên đại bộ phận “ngư dân tiểu nghệ” ở nước ta chưa bước lên con đường chuyên nghiệp của một nghề cá công nghiệp, dám làm ăn lớn và đủ sức cạnh tranh trên thị trường mở. Vì thế, cần phải kiên quyết “đổi mới trên nền cũ” và vẫn chưa muộn nếu chúng ta thực hiện được những bước đột phá trong tổ chức lại sản xuất nghề cá trên biển, đôi khi phải mạo hiểm một chút để sớm đi xa hơn nữa ra đại dương.

Đến năm 2020, ngành thuỷ sản phấn đấu có mức tăng trưởng kinh tế ít ra là gấp 2 lần hiện nay (tức là khoảng 7 tỷ USD), trong đó 70% tỷ trọng vẫn từ vùng nước lợ và biển. Nhu cầu sản phẩm (và chất lượng) thuỷ sản tiếp tục tăng cho cả thị trường xuất khẩu lẫn nội địa. Nhưng phát triển nhanh và bền vững, thời gian tới ngành thuỷ sản phải tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy thế mạnh của yếu tố biển trong kinh tế thuỷ sản: đẩy mạnh đánh bắt hải sản xa bờ, duy trì đánh bắt gần bờ hợp lí, gắn phát triển thuỷ sản với bảo vệ an ninh chủ quyền trên biển, tăng cường nuôi trồng hải sản trên biển hiệu quả dựa trên việc tiếp thu và áp dụng các công nghệ tiên tiến. Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất thuỷ sản trên biển phải là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, đồng thời phải chú trọng đến giá trị gia tăng của các sản phẩm thuỷ sản nhằm giảm bớt các ưu tiên hướng vào tổng sản lượng khai thác, tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm thuỷ sản. Đẩy mạnh việc tổ chức lại sản xuất trên mọi lĩnh vực của ngành thuỷ sản theo hướng hội nhập quốc tế, ưu tiên nghề cá biển, lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và suất đầu tư lớn.

Hướng chỉ đạo cụ thể đối với phát triển nghề cá biển là: duy trì tổng sản lượng đánh bắt trên biển hàng năm khoảng trên dưới 1,8 triệu tấn như hiện nay, giảm tỉ lệ cá tạp trong các mẻ lưới, áp dụng nhanh công nghệ sau thu hoạch, lấy công nghệ sinh học làm gốc để giải quyết vấn đề dịch bệnh và tăng giá trị sản phẩm thuỷ sản, tăng cường nuôi thuỷ sản trên biển hướng ra biển sâu: trước hết ở vùng ven biển phía ngoài, tổ chức lại và tăng cường dịch vụ nghề cá biển, đẩy mạnh công tác bảo tồn biển để bảo toàn “vốn sinh thái” và bảo vệ đa dạng sinh học biển cho phát triển nghề cá bền vững và tạo thêm ngành nghề mới trong các khu bảo tồn biển (câu cá, đánh cá giải trí, nuôi cá rạn san hô, nuôi thân thiện...) cho người dân địa phương. Trước mắt đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt quy hoạch hệ thống 15 khu bảo tồn biển đại diện với tổng diện tích bằng 0,3% vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tải sản quốc gia (đến năm 2010) và khoảng 3% vào năm 2020. Điều chuyển linh hoạt, nhưng trên cơ sở ổn định (về nguyên tắc) tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở vùng nước lợ ven biển.

Đảng và Chính phủ đặt kinh tế thuỷ sản vào vị trí xứng đáng trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là một hướng đi đúng nhằm phát huy lợi thế của một quốc gia có biển. Sự phát triển của kinh tế thuỷ sản chính là tạo cơ hội thu hút đầu tư và góp phần tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển như vậy không tách rời đường lối kinh tế biển chung của Đảng và phải gắn với bảo đảm an ninh, quốc phòng một cách hiệu quả trong thời gian tới, góp phần quan trọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia thoát nghèo, mạnh về biển, giàu lên từ biển vào năm 2020.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.