Phát huy tiềm năng, thế mạnh nghề khai thác hải sản
Khẳng định vai trò trong ngành Thủy sản Việt Nam
Việt Nam được xếp vào những quốc gia có tiềm năng phát triển kinh tế thủy sản nhất trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Sau hơn 50 năm xây dựng và phát triển, ngành Thủy sản Việt Nam đã có nhiều thay đổi, đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, thu hút nguồn lực từ nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển và đã trở thành một trong những ngành kinh tế đi đầu trong hội nhập kinh tế thế giới.
Từ năm 1985 đến nay, ngành Thủy sản liên tục tăng trưởng với tốc độ cao theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần đảm bảo vững chắc an ninh lương thực và bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia trên các vùng biển. Năm 2010, tổng sản lượng thủy sản đã đạt 5,2 triệu tấn, giá trị xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD và tạo công ăn việc làm cho gần 5 triệu người.
Là một ngành kinh tế tổng hợp, nhiều lĩnh vực, ngành nghề khai thác hải sản của Việt Nam trong nhiều năm qua luôn có một vai trò to lớn trong ngành thủy sản nói chung, bởi đây là ngành có vị trí quan trọng là khai thác nguồn tài nguyên thủy sinh vật biển, phát triển kinh tế đất nước, đồng thời tạo công ăn việc làm, góp phần nâng cao đời sống, kinh tế cho cộng đồng dân cư sống ven biển, các hải đảo. Ngoài ra, còn có vai trò tham gia bảo vệ trật tự anh ninh, chủ quyền quốc gia trên các vùng biển đảo.
Mặc dù trong những năm gần đây, thủy sản đã có sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phát triển mạnh nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất khẩu, song khai thác hải sản vẫn tiếp tục thu hút nguồn lực từ nhiều thành phần kinh tế để phát triển theo chiều sâu.
Theo đó, từ năm 1990 đến năm 2011, số lượng tàu thuyền khai thác hải sản tăng khoảng trên 3,2 lần, từ khoảng 41 nghìn chiếc năm 1990 lên trên 130 nghìn chiếc năm 2011. Trong đó, tàu cá lắp máy có tổng công suất từ 20 CV trở lên là 57 nghìn chiếc, chiếm khoảng 44% so với tổng tàu cá của cả nước. Với số lượng tàu thuyền ngày càng gia tăng, hiện cả nước đã có trên 128.123 tàu thuyền, sản lượng hải sản khai thác đạt khoảng 200.000 tấn/tháng.
Riêng tàu cá lắp máy có công suất 90 CV trở lên, có khả năng khai thác hải sản xa bờ đã tăng đáng kể, từ 5 nghìn chiếc năm 1997, lên trên 18 nghìn chiếc năm 2011. Cơ cấu tàu cá xếp theo công suất máy tăng dần từ Bắc vào Nam. Tính đến năm 2011, cả nước đã có trên 700 cơ sở đóng sửa tàu cá với khả năng đóng mới 4 nghìn chiếc/năm và sửa chữa 8 nghìn chiếc/năm. Ngoài ra, còn có nhiều cơ sở đóng tàu nhỏ ở các địa phương, cũng cấp sản phẩm cho các chủ tàu tại chỗ.
Cùng với đó, sản lượng khai thác hải sản đã tăng liên tục, năm 1990 đạt 672 nghìn tấn, năm 2010 đạt trên 2,2 triệu tấn. Từ đầu năm 2011 đến nay,theo Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng sản lượng thủy sản khai thác của cả nước đạt trên 1 triệu 200 nghìn tấn, trong đó, khai thác biển đạt trên 1 triệu tấn. Đặc biệt, nhiều loài hải sản giá trị kinh tế cao xuất hiện sớm như: cá ngừ tại ngư trường Nam Trung bộ, cá chim đen tại ngư trường Bắc Trung bộ...
Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục thủy sản- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, cơ cấu sản phẩm cũng đã có những thay đổi đáng kể, sản lượng khai thác hải sản xa bờ tăng và sản lượng hải sản vùng biển ven bờ có xu hướng giảm đến ngưỡng an toàn, đảm bảo khả năng tự tái tạo, phục hồi mật độ quần thể của nhiều giống, loài hải sản, trong đó có các loài tôm biển, một số loài nhuyễn thể. Nhiều loại hải sản khai thác được xuất khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ lớn trong đó phải kể đến các loài như: cá ngừ đại dương, mực đại dương…
Những bước tiến mới trong nghề khai thác hải sản
Có thể khẳng định, công nghệ khai thác hải sản trong những năm gần đây đã có sự thay đổi đáng kể, ngoài việc cải tiến các loại ngư cụ như: lưới kéo, rê, vây trong nước, việc dunhập một số ngư cụ khai thác thủy, hải sản khác cũng được thực hiện như: câu cá rạn, câu cá ngừ đại dương, chụp mực kết hợp với ánh sáng, lưới kéo đáy có độ mở cao… từ các nước trong khu vực.
Sự thay đổi này không những làm thay đổi các sản phẩm mà còn giúp ngư dân tiếp cận các sản phẩm có chất lượng, giá bán cao như các loại hải sản: cá mú sống, cá ngừ đại dương …được tiêu thụ mạnh ở trong nước cũng như xuất khẩu. Công nghệ bảo quản được cải tiến, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nên đã giảm hao hụt sản phẩm sau khai thác được ứng dụng phổ biến như: ướp đông, ướp đá, sử dụng các tàu chuyên dùng thu gom, chuyển tải sản phẩm trên biển.
Những năm qua, phương thức, quan hệ tổ chức sản xuất trên biển đã được đổi mới, theo đó, các mô hình sản xuất theo tổ đội, tàu mẹ, tàu con, tàu khai thác phối hợp với tàu dịch vụ hậu cần thu gom sản phẩm đã phát triển ở nhiều địa phương, trong đó có các tỉnh như Bình Thuận, Khánh Hòa, Bà Rịa- Vũng Tàu, Kiên Giang…điều này đã góp phần giảm được chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả trong khai thác, thông tin và hỗ trợ nhau, ứng cứu kịp thời khi có sự cố xảy ra trên biển. Hình thức hợp tác, liên kết giữa các chủ tàu cá, thành lập tổ hợp tác, tập đoàn, liên tập đoàn ngày càng phát triển phong phú, dần thay thế cho mô hình hợp tác xã khai thác hải sản trước đây.

Một loại dịch vụ trong việc khai thác hải sản cũng được các cấp, ngành và địa phương quan tâm, coi đây như là một yếu tố quan trọng để nghề khai thác hải sản phát triển bền vững. Đó là dịch vụ hậu cần nghề cá. Đến nay, cả nước đã có 211 cảng cá, bến cá được qui hoạch, trong đó có 15 cảng cá loại một, trên 40 cảng cá loại hai và nhiều bến cá đã và đang được đầu tư xây dựng, góp phần quan trọng vào việc cung cấp hậu cần dịch vụ cho đội tàu khai thác hải sản. Việc xây dựng khu neo đậu tránh, trú bão cũng được quan tâm đúng mức, trong 75 khu neo đậu đã được qui hoạch đến năm 2010 thì đã có 18 khu đưa vào sử dụng, đảm bảo cho trên 11 nghìn tàu các loại neo đậu, 42 khu đang được thi công, phê duyệt hoặc đang lập dự án đầu tư.
Cùng với xây dựng cảng và khu neo đậu, các chợ thủy sản đầu mối cũng được hình thành theo hệ thống trên phạm vi cả nước và được gắn với cảng cá, bến cá, trong đó có những chợ cá hoạt động rất hiệu quả như cảng cá Cát Lở thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
Theo ông Chu Tiến Vĩnh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngành khai thác hải sản cần sắp xếp tổ chức lại việc khai thác hải sản cho các nhóm tàu cá. Theo đó, đối với nhóm tàu lưới kéo cá, cần có những cơ chế chính sách nhằm hỗ trợ các chủ tàu trong việc giảm chi phí sản xuất, cụ thể là giảm thời gian tìm kiếm ngư trường, sự cố kỹ thuật và quan trọng hơn hết là khâu tổ chức bao tiêu sản phẩm, giảm các khâu trung gian, tạo điều kiện cho các chủ tàu tiếp cận được giá bán lẻ ở mức hợp lý nhất.
Để ngư dân yên tâm khai thác hải sản, các cấp, ngành chức năng và địa phương đã có nhiều dịch vụ hỗ trợ, góp phần làm giảm thiểu tối đa thiệt hại trong sản xuất, kinh doanh. Đến nay, tất cả các tàu cá hoạt động trên các vùng biển đều có thể nhận được thông tin thời tiết hàng ngày và thông tin thời tiết bất thường từ nhiều nguồn khác nhau như hệ thống phát thanh – truyền hình, hệ thống đài duyên hải hoặc từ các máy thông tin do bộ đội biên phòng cung cấp, cũng như từ chính gia đình hoặc các chủ tàu trên bờ.
Công tác dự báo ngư trường đã được cải tiến đổi mới. Hiện tại,Viện nghiên cứu hải sản Hải Phòng đã thực hiện dự báo theo tháng đối với các vùng biển, nhờ vậy giúp cho ngư dân nhanh chóng xác định được các vùng thả lưới, rút ngắn thời gian tìm kiếm ngư trường, nâng cao hiệu suất hoạt động.
Hệ thống tổ chức Phòng chống lụt, bão và Tìm kiếm cứu nạn được thành lập từ Trung ương xuống các địa phương đã hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động của tàu thuyền trên các vùng biển, những sự cố, tai nạn xảy ra trên biển đã nhanh chóng được xác định và có các giải pháp ứng cứu kịp thời. Ngoài ra, để tăng cường công tác thông tin trên biển, nhà nước đã và đang đầu tư dự án xây dựng hệ thống thông tin quản lý nghề cá trên biển, trong đó có đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật thông tin và trang thiết bị đầu – cuối trên tàu cá như: máy thu trực canh, máy vô tuyến, định vị, hệ thống giám sát hoạt động của tàu cá sử dụng công nghệ vệ tinh./.








