Pháp luật quốc tế về phòng, chông bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Quyền con người là giá trị phổ biến, là nhân phẩm vốn có của con người, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo... Tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền con người là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi quốc gia và cả cộng đồng quốc tế. Cuộc đấu tranh để xóa bỏ những vi phạm và lạm dụng quyền con người cần được tiến hành trên nhiều lĩnh vực và từ nhiều góc độ khác nhau. Một trong những góc độ đó hiện nay là bạo lực trên cơ sở giới.
Bạo lực giới là một vấn đề tồn tại từ lâu trong lịch sử nhưng lại là một nội dung mới trong pháp luật quốc tế. Trước những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều người cho rằng, bạo lực đối với phụ nữ thuộc về các mối quan hệ có tính riêng tư giữa các cá nhân, các thành viên trong gia đình. Vì vậy mọi hành vi bạo lực đối với phụ nữ nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật quốc tế nói chung, luật quốc tế về quyền con người nói riêng. Trong những năm gần đây, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao địa vị bình đẳng của phụ nữ, nhưng do nhiều yếu tố khác nhau mà ở nhiều nơi trên thế giới, nạn bạo lực đối với phụ nữ vẫn diễn ra thường xuyên dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Theo thống kê, tỷ lệ % số phụ nữ được hỏi cho biết đã từng bị xâm phạm thân thể bởi chồng, người tình hoặc bạn trai ở hiện tại hay trong quá khứ tại các khu vực và nhóm nước như sau:
Ở các nước công nghiệp: Canada 29%, Nhật Bản 59%, Newzealand 20%, Thụy Sĩ 20%, Anh 25%, Hoa Kỳ 28%, Hàn Quốc 38%.
Ở các nước đang phát triển thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương: Campuchia 16%, Ấn Độ (hơn 45% người chồng cho biết đã từng đánh đập vợ); Thái Lan (20% người chồng cho biết đã từng đánh đập vợ ít nhất một lần).
Ở các nước Trung Đông: Ai Cập 35%, lsrael 32%.
Ở các nước châu Phi: Kenya42%, Uganda41%, Zimbabwe 82%.
Ở khu vực châu Mỹ La tinh và Caribe: Chile26%, Colombia19%, Mexico 30%, Nicaragoa 52%.
Khu vực Trung và Đông Âu, các nước vùng Ban-tích: Estonia29%, Ba Lan 60%, Liên bang Nga 25%, Tajikistan 23%.
Một thống kê khác cho thấy, khoảng 1/3 đến 1/5 số phụ nữ và trẻ em gái trên thế giới là nạn nhân của các hình thức bạo lực, trong đó, mỗi năm có khoảng 4 triệu người, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài; khoảng 120 triệu đến 150 triệu phụ nữ bị cắt bỏ cơ quan sinh dục; 52% số phụ nữ trên toàn cầu đã từng là nạn nhân của bạo lực về thể chất từ phía chồng hoặc bạn trai.
Nạn bạo lực đối với phụ nữ gây nên nhiều tổn thất nghiêm trọng. Nó không chỉ hạn chế sự tham gia của phụ nữ vào đời sống xã hội, gây hậu quả về thể chất, tâm lý cho bản thân phụ nữ mà còn với cả trẻ em, gia đình vầ toàn xã hội. Vì vậy, những nỗ lực xóa bỏ nạn bạo lực trên cơ sở giới, trong đó việc thiết lập một khuôn khổ pháp lý quốc tế là hết là sức cần thiết.
1. Khung các quyền con người cơ bản với ý nghĩa là nền tảng pháp lý cho việc phòng, chống BLGĐ
Bộ luật quốc tế về quyền con người (International Bill of Human Rights) bao gồm Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền (the Universal Declaration of Human Rights - UDHR) năm 1948, hai công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (the International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR và the International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights - LCESCR), các nghị định thư không bắt buộc (bổ sung các công ước này) và các điều ước quốc tế khác về quyền con người do Liên hiệp quốc ban hành đã xác lập một khung các quyền con người cơ bản mà mọi thành viên trong gia đình nhân loại đều được hưởng và được bảo vệ trong mọi hoàn cảnh và môi trường, kể cả môi trường gia đình. Mặc dù không đề cập cụ thể đến quyền được bảo vệ chống BLGĐ, song khung các quyền con người cơ bản này có tác dụng như một nền tảng pháp lý quốc tế để phòng ngừa, ngăn chặn và trừng phạt các hành vi BLGĐ, bởi BLGĐ là một trong các hành vi cấu thành sự vi phạm nhiều quyền con người cơ bản. Cụ thể:
Quyền sống: Quyền này được nêu tại Điều 8 của UDHR, Điều 6 của Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và trong nhiều điều ước quốc tế khác về quyền con người. Theo các văn kiện này mọi người đều có quyền sống, Quyền này được pháp luật bảo vệ, không ai có thể bị tước đoạt mạng sống một cách vô cớ.
Theo Ủy ban Quyền con người của Liên hiệp quốc (Human Rights Committee - cơ quan giám sát ICCPR), quyền sống là "quyền tối cao phải được thực hiện trong mọi hoàn cảnh mà không được đình hoãn, kể cả trong bối cảnh khẩn cấp đe dọa an ninh quốc gia... Quyền này không được giải thích theo nghĩa hẹp". Mặc dù những bối cảnh trong đó quyền sống bị vi phạm chủ yếu là chiến tranh, xung đột vũ trang, việc thực thi pháp luật (án tử hình, tra tấn, đưa đi mất tích...), song, không thể phủ nhận BLGĐ cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm quyền sống của nhiều người, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Theo nghĩa này, quy định về quyền sống trong pháp luật quốc tế về quyền con người cung cấp một nền tảng pháp lý cho việc đấu tranh ngăn chặn và xóa bỏ những hình thức BLGĐ tồi tệ nhất.
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm:"Quyền này được nêu ở các Điều 5, 9, 12 của UDHR, các Điều 7, 17 của ICCPR và một số điều ước quốc tế khác về quyền con người. Theo tinh thần của các điều này, thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân là bất khả xâm phạm. Không ai được tự ý làm tổn hại đến thân thể, danh dự, nhân phẩm của người khác.
Tương tự như quyền sống, mặc dù quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm chủ yếu được đề cập trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân (ví dụ: trong hoạt động tố tụng như cấm tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo; cấm can thiệp vô cớ vào đời tư của công dân...), song trên thực tế BLGĐ là một trong các nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến sự xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm. Về bản chất, quyền này bảo vệ sự toàn vẹn về thân thể, danh dự, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh. Bởi vậy, quy định về quyền này trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng có ý nghĩa trong việc phòng, chống BLGĐ.
- Quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật: Quyền này được quy định trong Điều 7 của UDHR, các Điều 14, 16 của ICCPR và một số điều ước quốc tế khác về quyền con người. Theo các quy định này, mọi người, bất kể sự khác biệt về giới tính, độ tuổi... đều có vị thế bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng. Theo nghĩa đó, quy định về quyền này trong pháp luật quốc tế về quyền con người có ý nghĩa phòng, chống BLGĐ, bởi BLGĐ trước hết nảy sinh từ vị thế bất bình đẳng giữa kẻ có hành vi bạo lực và nạn nhân của bạo lực, mà thông thường là giữa nam giới và phụ nữ.
- Quyền bình đẳng không bị phân biệt đối xử: Quyền này được quy định trong các Điều 1, 2 của UDHR; Điều 3 của ICCPR và một số điều ước khác. Mặc dù có phạm vi rộng hơn sự bình đẳng về giới? song trong bối cảnh BLGĐ, quyền này chủ yếu được đề cập như là sự bình đẳng giữa nam và nữ. Theo nghĩa đó, quyền này trở thành nền tảng cho việc phòng, chống BLGĐ, bởi lẽ BLGĐ về cơ bản có nguyên nhân từ sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.
2. CEDAW và hạn chế của nó trong vấn đề BLGĐ
Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ(Convention on the Elimination of all Forms of Discrimination Against Women - CEDAW) - điều ước quốc tế quan trọng nhất về bảo vệ quyền con người của phụ nữ - không có quy định đề cập cụ thể đến vấn đề bạo lực chống lại phụ nữ nói chung, BLGĐ nối riêng. Đây được coi là một trong những hạn chế lớn nhất của Công ước này. Tuy nhiên, với việc xác định quan hệ gia đình là một trong các lĩnh vực phụ nữ bị phân biệt đối xử phổ biến nhất và có những quy định cụ thể nhằm xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ nói chung, phân biệt đối xử với phụ nữ trong quan hệ gia đình nói riêng, CEDAW góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quốc tế có liên quan đến phòng, chống BLGĐ.
Liên quan đến hạn chế kể trên của CEDAW, Ủy ban giám sát công ước (ủy ban CEDAW) đã thông qua Khuyến nghị chung số 19 vào năm 1992, trong đó khẳng định bạo lực trên cơ sở giới (gender-based violence) là "hình thức phân biệt đối xử mà hạn chế nghiêm trọng khả năng của phụ nữ được hưởngcác quyền và tự do trên cơ sở bình đẳng với nam giới". Bình luận chung cũng nêu rõ bạo lực trên cơ sở giới bao gồm BLGĐ. Đây là lần đầu tiên một Ủy ban giám sát công ước quốc tế về quyền con người đưa ra lời giải thích chính thức nhằm chống lại tình trạng bạo lực đối với phụ nữ. Ở một mức độ nhất định, Khuyến nghị chung số 19 của Ủy ban giám sát công ước đã góp phần bù đắp hạn chế quan trọng nêu trên của CEDAW.
3. Các văn kiện quốc tế không ràng buộc nghĩa vụ pháp lý có ý nghĩa định hướng chính sách, thúc đẩy hành động và sự hợp tác trong phòng, chống BLGĐ
Ngoài các công ước, điều ước quốc tế kể trên, nhiều hội nghị của Liên hiệp quốc đã thông qua các văn kiện (tuyên bố, tuyên ngôn...) trong đó có những quy định trực tiếp hoặc có liên quan đến phòng, chống BLGĐ. Mặc dù các văn kiện này không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý với các quốc gia, song chúng thể hiện sự thống nhất về quan điểm và thái độ của cộng đồng quốc tế và qua đó có tác dụng thúc đẩy hành động của cộng đồng quốc tế đối với việc đấu tranh chống BLGĐ. Trong số các văn kiện này, những văn kiện sau đây có ý nghĩa quan trọng:
- Báo cáo thông qua tại Hội nghị thế giới về Thập kỷ về Phụ nữ của Liên hợp quốc: Bình đẳng, Phát triển và Hòa bình (the World Conference of the United Nations Decade for Women: Equality, Development and Peace) tổ chức năm 1982 ở Copenhagen (Đan mạch). Báo cáo này đánh dấu lần đầu tiên vấn đề BLGĐ được đề cập cụ thể trong một văn kiện chính thức của Liên hiệp quốc. Báo cáo nêu rõ: "Cấn ban hành và thực hiện các văn bản pháp luật dể phòng, chống BLGĐ và bạo lực tình dục với phụ nữ. Cần thực thi tất cả các biện pháp cần thiết, kể cả biện pháp lập pháp, để bảo đảm các nạn nhân của BLGĐ và bạo lực tình dục được đối xử công bằng trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự".
- Báo cáo cuối cùng thông qua tại Hội nghị thế giới về phụ nữ lần thứ ba (Third World Conference on Women) ở Nairobi (Kenya) cũng kêu gọi các chính phủ "thực hiện các biện pháp hiệu quả, bao gồm việc huy động các nguồn lực ở cộng đồng để xác định, phòng chống và xóa bỏ tất cả các hình thức bạo lực, bao gồm BLGĐ, bạo lực chống lại phụ nữ và để cung cấp những nơi trú ngụ tạm thời, các dịch vụ hỗ trợ và trợ giúp tâm lý cho những phụ nữ và trẻ em bị lạm dụng".
- Tuyên bố Viên và Chương trình hành động (Vienna Declaration and Programme of Action) được thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai, tổ chức tại Viên (áo) tháng 6/1993 nêu rõ: "...Hội nghị thế giới về quyền con người nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hành động tiến tới xóa bỏ bạo lực chống lại phụ nữ trong đời sống công cộng và riêng tư... việc xóa bỏ những định kiến giới trong hoạt động tố tụng và việc xóa bỏ bất kỳ xung đột nào có thể nảy sinh giữa các quyền của phụ nữ và những tác động có hại gây ra bởi một số tập tục truyền thống".
- Cương lĩnh hành động Bắc Kinh (Beijing Platform for Action), được thông qua tại Hội nghị thế giới về phụ nữ lần thứ tư tổ chức ở Bắc Kinh (Trung Quốc) năm 1995 lần đầu tiên xác định rõ BLGĐ là một hình thức vi phạm quyền con người, theo đó: "bạo lực chống phụ nữ không chỉ vi phạm mà còn hạn chế hoặc ngăn cản việc phụ nữ hưởng thụ các quyền con người và tự do cơ bản của họ". Cương lĩnh kêu gọi các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các chủ thể khác cần tiến hành những biện pháp cần thiết nhằm chống lại tình trạng bạo lực đối với phụ nữ, trong đó bao gồm việc tăng cường hệ thống pháp luật có liên quan để giải quyết vấn đề bạo lực trong gia đình.
Ngoài những hội nghị quan trọng kể trên, một số hội nghị khác của Liên hiệp quốc cũng thông qua các văn kiện đề cập đến vấn đề phòng, chống BLGĐ như: Chương trình hành động thông qua tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển lần thứ nhất tổ chức tại Cairo (Ai Cập) năm 1994 (the 1994 International Conference on Population and Development - ICPD) cũng nêu rõ, các chính phủ cần chú ý đến việc phòng, chống tất cả các hình thức 'bạo lực chống lại phụ nữ. Yêu cầu này sau đó tiếp tục được nhấn mạnh trong Chương trình Hành động tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát tnển lần thứ hai tổ chức 5 năm sau đó (Hội nghị Cairo + 5); Tuyên bố Copenhagen về Phát triển xã hội (The Copenhagen Declaration on Social Developmạnt) thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển xã hội (World Summit for Social Development in Copenhagen) tổ chức ở Copenhagen (Đan Mạch) năm 1995 cũng kêu gọi các chính phủ thực thi các biện pháp hiệu quả để chống lại và xóa bỏ tất cả các hình thức bạo lực chống lại phụ nữ; Tuyên bố và Chương trình hành động Durban thông qua tại Hội nghị thế giới về chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc sự phân biệt đối xử về chủng tộc, tình trạng bài ngoại và những hình thức thiếu khoan dung khác có liên quan (the 2001 World Conference against Racism, Racial Discrimination, Xenophobia and Related Intolerance) tổ chức ở Durban (Nam Phi) năm 2001 đã thừa nhận rằng, sự giao thoa giữa các yếu tố như giới, chủng tộc, sắc tộc và các yếu tố khác có thể khiến phụ nữ trở lên đặc biệt dễ bị tổn thương với một số dạng bạo lực nhất định, và kêu gọi các chính phủ "xem xét việc thông qua và thực hiện các chính sách và chương trình di cư mà có thể cho phép những người di trú, dặc biệt là phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình hoặc bạo lực trong hôn nhân được tự giải phóng mình khỏi những quan hệ bạo lực đó).
4. Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực chống lại phụ nữ, văn kiện có tính bước ngoặt trong việc đấu tranh chống bạo lực chống lại phụ nữ nói chung, BLGĐ nói riêng
Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực chống lại phụ nữ (Declaration on the Elimination of Violence Against Women - DEVAW) được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua vào năm 1998. Sự ra đời của Tuyên bố này là kết quả của những nỗ lực lâu dài của Ủy ban Liên hiệp quốc về Vị thế của phụ nữ (the United Nations Commission on the Status of Women - CSW) và Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hiệp quốc (the Economic and Social Council - ECOSOC). Tương tự như các văn kiện thông qua tại các hội nghị quốc tế của Liên hiệp quốc về phụ nữ, Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực chống lại phụ nữ không phải là một điều ước quốc tế nên không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý với các quốc gia. Tuy nhiên, so với các văn kiện khác cùng loại, Tuyên bố này có tác động to lớn hơn cả đối với cuộc đấu tranh phòng, chống bạo lực chống lại phụ nữ trên thế giới và có thể coi là văn kiện mang tính bước ngoặt trong vấn đề này, bởi vì:
Thứ nhất, là một văn kiện do Liên hiệp quốc ban hành, Tuyên bố có tác động trên toàn thế giới, mang ý nghĩa là một tuyên bố có tính nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế về việc phản đối, phòng, chống và ngăn chặn bạo lực chống lại phụ nữ. Đây cũng là văn kiện chính thức đầu tiên của Liên hiệp quốc đề cập cụ thể và duy nhất đến vấn đề bạo lực chống lại phụ nữ.
Thứ hai, Tuyên bố đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản của tình trạng bạo lực chống lại phụ nữ, làm cơ sở cho hành động phòng, chống tình trạng này, đó là địa vị phụ thuộc của phụ nữ vào nam giới. Văn kiện nêu rõ: "bạo lực chống lại phụ nữ là hậu quả của những quan hệ quyền lực bất bình đẳng có tính lịch sử giữa phụ nữ và nam giới mà dẫn đến sự thống trị và sự phán biệt đối xử của nam giới với phụ nữ". Liên quan đến khía cạnh này, Tuyên bố lên án những cơ chế xã hội chủ yếu mà trong đó phụ nữ bị đặt vào địa vị phụ thuộc vào nam giới, đồng thời xác định bạo lực chống lại phụ nữ có thể diễn ra "cả trong đời sống công cộng và đời sống riêng tư".
Thứ ba,Tuyên bố đề cập đến những biện pháp cụ thể mà các quốc gia thành viên cần tiến hành nhằm chống lại BLGĐ. Ở thời điểm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, đây có thể coi là những định hướng chính sách rất hữu ích cho các quốc gia trong vấn đề này. Các biện pháp cụ thể được nêu trong Tuyên bố bao gồm việc cải cách hệ thống pháp lý điều tra, trừng phạt những kẻ có hành vi BLGĐL xây dựng và thực hiện những chương trình toàn diện về pháp lý, chính trị, hành chính và văn hóa để ngăn chặn bạo lực chống lại phụ nữ; tập huấn cho các quan chức thực thi pháp luật về vấn đề này; đồng thời thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, thu thập dữ liệu thống kê về vấn đề phòng, chống BLGĐ...
5. Báo cáo nghiên cứu về bạo lực chống lại phụ nữ của báo cáo viên đặc biệt của Liên hiệp quốc với ý nghĩa là văn kiện vận động và định hướng chính sách về phòng, chống bạo lực chống lại phụ nữ
Trong cơ chế của Liên hiệp quốc về quyền con người, báo cáo viên đặc biệt (Special Reporter) có vị thế quan trọng và việc sử dụng báo cáo viên đặc biệt được coi là một hình thức hiệu quả, sáng tạo linh hoạt nhất của Liên hiệp quốc trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thế giới.
Về cơ bản, các báo cáo viên đặc biệt được bầu ra bởi ủy ban Quyền con người Liên hiệp quốc (nay đổi thành Hội đồng Quyền con người Liên hiệp quốc) để nghiên cứu, báo cáo và đưa ra những khuyến nghị về những vấn đề nghiêm trọng về quyền con người trên thế giới. Do vậy, báo cáo của các báo cáo viên đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc vận động và định hướng chính sách của cả Liên hiệp quốc và các quốc gia liên quan đến các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu.
Nhiệm vụ của báo cáo viên đặc biệt này được nêu rất cụ thể, bao gồm: "Tìm kiếm và tiếp nhận các thông tin về bạo lực chống lại phụ nữ, những nguyên nhân và hậu quả của tình trạng đó, từ các chính phủ, các ủy ban giám sát các công ước quốc tế về quyến con người, các cơ quan của Liên hiệp quốc và các báo cáo viên đặc biệt khác... và đưa ra những khuyến nghị về các phương hướng, biện pháp, cách thức, ở các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế để xóa bỏ bạo lực chống lại phụ nữ và các nguyên nhân của tình trạng đó, cũng như để giải quyết những hậu quả của tình trạng đó".
Chỉ trong thời gian từ năm 1994 đến 2003, báo cáo viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về bạo lực chống lại phụ nữ đã đưa ra 28 báo cáo về chủ đề này. Các báo cáo đề cập đến rất nhiều hình thức bạo lực khác nhau với phụ nữ, xảy ra ở rất nhiều quốc gia trên thế giới và rất nhiều hình thức bạo lực đó có thể xếp vào dạng BLGĐ. Một trong các báo cáo đó (năm 1996) đề cập cụ thể đến BLGĐ, trong đó khuyến nghị về một văn bản pháp luật mẫu (model legislation) ở cấp quốc gia về phòng, chống BLGĐ. Văn bản pháp luật mẫu này bao gồm một định nghĩa về BLGĐ, quy định về mục tiêu và các biện pháp về dân sự, hình sự để phòng ngừa và trừng phạt những hành vi BLGĐ…; được coi là một tài liệu tham khảo chính khi xây dựng các văn bản pháp luật quốc gia về vấn đề này.
Như vậy, phòng chống bạo lực chống lại phụ nữ nói chung, BLGĐ nói riêng được đề cập trong nhiều văn kiện thông qua tại các hội nghị của Liên hiệp quốc. Trong các văn kiện nêu trên, bản chất của bạo lực chống lại phụ nữ nói chung, trong đó có bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình, được xác định là một dạng vi phạm quyền con người. Đây là bước chuyển biến rất quan trọng về nhận thức của cộng đồng quốc tế, tạo tiền đề lý luận để xác định trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ các quyền con người do những chủ thể là cá nhân thực hiện trong các môi trường riêng tư. Việc khẳng định trách nhiệm của nhà nước trong việc ngăn chặn BLGĐ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi nếu không có sự tham gia của nhà nước, không thể có các công cụ pháp luật để đấu tranh cố hiệu quả vấn đề BLGĐ.
Mặc dù vấn đề bạo lực chống lại phụ nữ nói chung, BLGĐ nói riêng trong những thập kỷ gần đây đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của Liên hiệp quốc, song nhìn một cách khái quát, khuôn khổ pháp lý quốc tế về vấn đề này (mặc dù đã được tăng cường đáng kể trong thời gian qua) vẫn chưa tương xứng với tầm vóc của vấn đề. Điều này thể hiện ở việc trong khi bạo lực chống lại phụ nữ nói chung, BLGĐ nói riêng là một trong những dạng vi phạm các quyền con người của phụ nữ mang tính phổ biến, thường xuyên và trong nhiều trường hợp, mang tính nghiêm trọng nhất, song hiện vẫn chưa có những quy định hoặc văn kiện quốc tế nào mang tính ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các quốc gia trong việc ngăn chặn và xóa bỏ tình trạng này. Tất cả các quy định và văn kiện quốc tế hiện có về vấn đề này chỉ là "luật mềm". Bởi vậy, mặc dù đã cung cấp một khuôn khổ khá toàn diện những vấn đề có ý nghĩa định hướng pháp luật và chính sách, song tác dụng của các văn kiện này trên thực tế vẫn rất hạn chế. Do đó, việc củng cố và tăng cường khuôn khổ pháp luật quốc tế về chống bạo lực với phụ nữ nói chung, BLGĐ nói riêng vẫn là một nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với hệ thống Liên hiệp quốc trong thời gian tới.
Là thành viên của Liên hiệp quốc, Việt Namđã có nhiều cố gắng trong việc nội luật hóa các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có Công ước CEDAW vào hệ thống pháp luật Việt Nam . Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián tiếp hên quan đến phòng, chống BLGĐ chống lại phụ nữ, trong đó phải kể đến Hiến pháp năm 1992; Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính; Pháp lệnh về Người cao tuổi; Pháp lệnh về Người tàn tật; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình... Các đạo luật nêu trên đều nhất quán khẳng định vị trí bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt, với việc thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia đình theo tinh thần của luật mẫu về phòng, chống BLGĐ của Liên hiệp quốc năm 1996 là một bước tiến tích cực, là cột mốc quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người trong đó có quyền bình đẳng của phụ nữ ở Việt Nam.