Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 08/01/2007 15:51 (GMT+7)

Phải chăng có một nền văn hóa Huế?

... Nhưng sau khi được giao thêm làm trấn thủ Quảng Nam năm 1568, và nhất là khi trở lại Thuận Quảng năm 1600, thì ông mới có ý định xây dựng một cơ đồ riêng. Thành công của Nguyễn Hoàng đã được chính các sử gia của nhà Lê (tức là viết theo quan điểm của chúa Trịnh) xác nhận: “Hoàng trị nhậm mấy chục năm, chính lệnh khoan hòa, thường ban ân huệ, dùng phép công bằng, khuyên răn bản bộ, cấm trấp những kẻ hung ác; dân hai trấn đều cảm lòng mến đức, thay đổi phong tục, chợ không nói thách, dân không trộm cắp, cổng ngoài không phải đóng, thuyền buôn nước ngoài đều đến buôn bán, đổi trao phải giá, quân lệnh nghiêm cẩn, mọi người ra sức” ( Đại Việt sử ký toàn thư).

Trong thời gian đầu, Nguyễn Hoàng và những người kế vị vẫn còn phải lo đối phó với áp lực của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, nên phải đặt đại bản doanh ở Ái Tử thuộc tỉnh Quảng Trị ngày nay. Nhưng từ năm 1636, khi cuộc chiến giữa hai miền nam bắc dần dần lắng dịu, thì các chúa Nguyễn mới chuyển lỵ sở xa về phía nam, và đã chọn mảnh đất hai bên bờ sông Hương làm nơi định đô. Từ lúc đó, diện mạo của Huế mới bắt đầu thay đổi.

Tuy nhiên, Nguyễn Hoàng đã có ý đồ xây dựng phía nam thành hậu phương cho công cuộc cát cứ lâu dài. Năm 1602, sau chuyến đi thăm phía nam đèo Hải Vân đến Quảng Nam, Chúa đã ghi nhận rằng ở đây “đất tốt, dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp vào nhiều hơn Thuận Hóa mà số quân thì cũng bằng quá nửa” (Đại Nam thực lục). Rồi năm 1611 đã đẩy ranh giới đến tận đèo Đại Lãnh với việc thành lập tỉnh Phú Yên. Như vậy là từ một tỉnh cực nam của đất nước, Huế đã trở thành vị trí đầu cầu cho công cuộc Nam tiến mà các chúa Nguyễn sẽ thực hiện trong suốt hai thế kỷ. Đấy là nơi mà các chúa Nguyễn tìm thấy một chân trời mới mở ra nhiều sự chọn lựa hơn “một thế giới khác vẫy gọi, một thế giới chưa định hình đã được an bài trở thành nơi người Việt Nam tìm thấy sự giải thoát khỏi những đòi hỏi truyền thống, nơi […] được mô tả như một miền duyên hải thiên đường của hòa bình, phồn vinh và những thương nhân ngoại quốc”(1).

Nhưng tại sao các chúa Nguyễn lại không chọn đất Quảng làm nơi đặt lỵ sở, vì ngay từ đầu Nguyễn Hoàng đã nhìn thấy vị trí thuận lợi và giàu có của miền đất này, nên đã cho người con trưởng là Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn nhậm và kinh dinh. Trái lại các chúa đã chọn đất Phú Xuân - Huế, một vùng chật hẹp, khí hậu khắc nghiệt hơn miền đất bên kia đèo Hải Vân. Cho nên trong lịch sử đã có những chuyện tình cờ, hoặc do hoàn cảnh, hoặc do thói quen, hay do những ràng buộc khác, khiến cho sự lựa chọn đôi khi không phải lúc nào cũng duy lý. Nhưng có một điều thấy rõ, là dù chưa được khai phá, nhưng Huế lúc đó vẫn có “sông không sâu, núi không cao”, cảnh vật hiền hòa với những cánh đồng hẹp êm đềm, không quá gần biển (mà thời đó với khả năng phòng thủ của ta sống sát ven biển vẫn tiềm tàng nhiều hiểm họa), nhưng cũng không quá xa (để có thể mở cảng sông ở Thanh Hà - Phố Lở), đáng làm nơi tụ hội. Chính vì vậy mà sau mấy thế kỷ khai thác, Huế đã mang một diện mạo mới, trở thành một trung tâm chính trị - văn hóa của Đàng Trong.

Vậy đặc điểm của vùng văn hóa mới hình thành này là gì? Có thể điểm qua những nét riêng sau đây.

Đến miền nam, các chúa Nguyễn phải đương đầu với một sự lựa chọn không nằm trong truyền thống chính trị cũ của người Việt. Cuộc gặp gỡ với thế giới rộng lớn vùng Đông Nam Á đã đem lại cho người Đàng Trong bài học kinh nghiệm mới về sự tự do. Năm 1627 khi bùng nổ cuộc chiến giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn thì họ Nguyễn ở vào thế yếu kém hơn nhiều. Họ Trịnh đã thừa kế được một thể chế vững chắc, cai trị một vùng đất rộng hơn phía nam đến ba bốn lần, trong khi đó họ Nguyễn bị đẩy đến một vùng đất mới, có nhiều cư dân bản địa mang tập quán và tín ngưỡng khác, không dễ gì mà thần phục. Vậy mà các chúa Nguyễn không những đã đánh bại 7 cuộc tấn công của chúa Trịnh, mà còn mở rộng biên giới xuống phương nam kiểm soát được trên ba phần năm lãnh thổ chỉ trong vòng 200 năm.

Điều đó cho thấy mô hình Khổng giáo mà nhà Lê đã thiết lập từ thế kỷ XV, với đường lối “trọng nông ức thương” đã đưa xã hội Đàng Ngoài đi vào con đường bế tắc không thể đối phó được với sự tăng dân số và thiên tai, khiến cho từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII nông dân phải lưu tán gây nên tình trạng không ổn định. Trong khi đó ở Đàng Trong, người Việt đi theo họ Nguyễn được tự do đi lại giữa vùng đất mới, giữa những tộc người bản địa thưa thớt, trên một vùng biên giới mở và co dãn. Có thể nói trên vùng đất mới này đã có một xã hội mới phát triển, với một bối cảnh văn hóa khác, trong những điều kiện chính trị và kinh tế hoàn toàn khác (2).

Trong khi ở Đàng Ngoài, chế độ thi cử đã thành nền nếp để đào tạo tầng lớp nho sĩ quan liêu, thì ở Đàng Trong việc tuyển dụng nhân tài không bị câu nệ theo công thức cũ, một người thuộc dòng dõi “xướng ca vô loài”, không đỗ đạt gì như Đào Duy Từ mà vẫn được chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên tin dùng làm nội tán, trở thành một công thần lớn trong việc xây dựng sự nghiệp ở phương nam. Trong bối cảnh mới, các chúa Nguyễn trở nên cởi mở hơn, ít bị câu nệ vì ý thức hệ Khổng giáo, không có thái độ kỳ thị đối với các tôn giáo khác như giới nho sĩ miền bắc. Có lẽ sự tiếp xúc gần gũi hơn với những quốc gia Ấn Độ hóa theo Phật giáo Theravada - lập các vị vua đồng nhất với thần - đã khiến cho các chúa Nguyễn muốn quay trở lại truyền thống dân tộc đã có từ thời Lý, lấy Phật giáo làm chỗ dựa cho việc xây dựng vương triều. Thậm chí vị chúa đời thứ sáu là Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) đã tự xưng là đệ tử đời thứ 30 của Thiền phái Lâm Tế. Năm 1749 nhà du hành người Pháp Pierre Poivre đã ghi nhận rằng xung quanh kinh đô Đàng Trong có tới gần 400 chùa thờ Phật, và nếu ở xa thì còn nhiều hơn (3).

Dấu ấn Phật giáo đã in đậm trong cảnh quan Huế ngày nay để trở thành một thành phố của chùa chiền. Các ngôi chùa lớn nhỏ không những nằm trên các sườn đồi phía tây thành phố, mà còn xen lẫn trong các khu dân cư ven bờ sông Hương, hoặc náu mình dưới những tán cây cổ thụ rợp bóng, đem lại cho Huế một dáng vẻ êm đềm trầm mặc. Không những thế, Phật giáo còn hằn sâu trong tâm thức người Huế. Hầu hết các phong trào Phật giáo thời hiện đại đều xuất phát từ Huế. Ví như phong trào chấn hưng Phật giáo những năm 40 của thế kỷ trước kéo theo việc đưa Phật giáo vào đời sống của mọi người dân với các đội Phật tử tổ chức theo kiểu Hướng đạo sinh của phương Tây, lập nên những gia đình Phật tử tồn tại đến tận ngày nay; phong trào nổi dậy của Phật tử chống chính quyền Sài Gòn và sự can thiệp của Mỹ những năm 1962-1963, đưa đến sự sụp đổ của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. ý thức hệ Phật giáo còn thể hiện trong nhiều tập quán của người Huế, trước hết là trong việc kiêng kỵ một số món ăn: phần lớn người Huế đều kiêng ăn cá chép (cá gáy) vì theo một Phật thoại thì cá chép thường đến dưới chân Phật nghe giảng kinh để sau này hóa thành rồng. Còn đối với thịt chó, thì trong khi từ miền bắc nó đã lan đến khắp các thành phố khác ở miền nam, thì chỉ riêng Huế là nơi mà thịt chó không có chỗ đứng. Đó cũng là một phản ứng của những người sùng tín Phật giáo, không muốn ăn thịt một con vật trung thành và hơn nữa thịt của nó còn mang tính uế tạp.

Một trong những tinh thần cơ bản của Phật giáo là khoan dung. Khi Khổng giáo được nhà Lê chấp nhận làm ý thức hệ chính thống từ thế kỷ XV, thì các nhà nho không ngừng bài xích các tín ngưỡng dân gian, coi đó là mê tín dị đoan, đi ngược với tinh thần của đạo Khổng. Trong khi đó, đến miền nam, tiếp xúc với nhiều tín ngưỡng bản địa, giới cầm quyền người Việt đã có một thái độ ứng xử rộng mở hơn đối với các tín ngưỡng ngoại lai. Biểu hiện đầu tiên là việc tiếp nhận nữ thần Chăm Po Nagar để biến hình thành nữ thần Thiên Y Ana, mà người đầu tiên là Nguyễn Hoàng năm 1600 đã dựng nên truyền thuyết về vị nữ thần từ trên trời xuống báo mộng, để đặt tên ngôi chùa - có lẽ xây trên nền cũ của một ngôi đền Chăm - là Thiên Mụ (người phụ nữ trên trời xuống). Cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều đền thờ nữ thần Chăm được Việt hóa nằm rải rác trong khu vực quanh thành phố Huế, mà linh mục Cadière đã từng thống kê, trong đó nổi tiếng nhất là điện Hòn Chén (tức điện Huệ Nam) nằm ở phía tây thành phố. Phật giáo ở Huế mang tính tổng hòa đáp ứng được nhiều yêu cầu của các tầng lớp dân chúng, trong đó không thể không nói đến những cư dân bản địa đã dần dần được Việt hóa.

Cũng theo dòng tư tưởng đó, nhiều đối tượng thờ cúng trong dân dã đã được dung nạp như tục thờ đá, thờ cây cổ thụ, thờ cá sấu, thờ cọp… (4). Đến Huế ta có thể bắt gặp ở bất cứ góc vườn nào, ở bất cứ góc phố nào, hay trên các nẻo đường làng quanh thành phố, một cái am nhỏ, hay một cái miếu con, cho đến một ban thờ đặt trên trụ gạch hay cột tre, để thờ một vị thần hay một cô hồn nào đó. Những nơi thờ tự đó không bao giờ thiếu vắng hương khói vào ngày rằm và mồng một.

Thái độ ứng xử đó còn khiến cho người Huế luôn cảm thấy mình gần gũi với thiên nhiên, họ coi cuộc sống của mình gắn liền với đời sống của cây cỏ, của núi sông. Thậm chí, người ta còn nghĩ rằng cây lá cũng có thể đau đớn khi bị con người đối xử tàn nhẫn. Có một tập tục đến nay vẫn được duy trì là khi nhà có tang, người ta cũng buộc những dải băng tang trên các cành cây trong vườn, coi cây cỏ cũng có thể buồn vui cùng chủ nhân ngôi nhà. Chính vì vậy mà Huế trở nên một thành phố hòa mình vào thiên nhiên, một thành phố mà những ngọn đồi, những dòng sông, những tán cây, đều được mọi người dân quan tâm gìn giữ, coi như một phần cuộc sống của mình. Sự quan tâm của người dân đối với thiên nhiên đã khiến cho người Huế ngày nay rất nhậy cảm với những vấn đề môi trường như gìn giữ cảnh quan hai bên bờ sông Hương mà những dự án gần đây trên đồi Vọng Cảnh đã làm cho người dân Huế rất bất bình.

Trong những người đầu tiên đi theo chúa Nguyễn vào nam, trừ một số ít quân tướng bản bộ ở các tỉnh lưu vực sông Hồng, còn lại phần lớn là những người từ Thanh Nghệ trở vào, mà sau này trở thành những dòng họ khai quốc. Đặc biệt trong những lần tấn công ra Bắc hà, chúa Nguyễn còn bắt theo nhiều cư dân Nghệ Tĩnh về nam. Cho nên không lấy làm lạ rằng người Huế còn giữ nhiều tập quán của người Thanh Nghệ cổ, với nhiều điểm gần gũi với người Mường, để sau này được cố định thành những nét riêng của xứ Huế, mà một nhà dân tộc học Huế đã gọi là hiện tượng “đóng băng ở ngoại biên” (5). Cuộc sống nơi đầu sóng ngọn gió đã khiến cho chúa tôi họ Nguyễn trở nên bộc trực hơn, gần gũi nhau hơn, bỏ đi nhiều lối đối xử kiểu cách mang tính “triều đình” của người miền bắc. Một nho sĩ Trung Hoa đến Đàng Trong từ năm 1657 đã ghi lại rằng chúa Nguyễn khi lâm triều thường xưng hô với đình thần bằng “mi tau” (tức là mày tao) (6). Ngày nay, cách ăn nói của người Huế vẫn còn lưu lại nhiều ảnh hưởng của những thời kỳ xa xưa, đó là một lối nói không phải chỉ khác ở thanh điệu mà còn sử dụng nhiều từ cổ địa phương, đưa nhiều câu tục ngữ vào ngôn ngữ thường ngày, khiến cho tiếng Huế vừa mang tính kiểu cách của chốn cung đình, lại vừa mang tính dân gian của những con người bình dị.

Nhưng vì được chọn làm nơi định đô của các chúa, rồi từ thế kỷ XIX lại trở thành kinh đô của cả nước - nếu không kể một thời gian ngắn lại là kinh đô của nhà Nguyễn Tây Sơn - nên Huế không tránh khỏi là một nơi được hưởng nhiều đặc ân của triều đình. Đất đai tỉnh Thừa Thiên phần lớn là đất phân phong cho những ông hoàng bà chúa triều Nguyễn, người dân làm sai dịch cho các gia đình quí tộc được miễn nhiều khoản đóng góp và tạp dịch khác, con cháu của họ dù không được học hành cũng có thể dễ dàng kiếm được một chân nha lại nơi cửa quan. Còn mọi thứ đóng góp cho triều đình thì đã có các tỉnh khác lo: “Hết gạo đã có Đồng Nai, hết củi thì có Tân Sài chở vô” (Tân Sài ở Quảng Trị). Điều đó cho thấy sự ỷ lại của Huế trong sản xuất, triều đình không nghĩ đến chuyện tận thu trên mảnh đất nhỏ hẹp này. Có lẽ vì vậy mà người nông dân Thừa Thiên gắn bó chặt chẽ với làng xã, gắn bó với chế độ ruộng công, mãn nguyện với những đặc quyền mà họ được hưởng trên mảnh đất quê hương. Tính cộng đồng cao của cư dân Huế còn thể hiện ở việc gìn giữ ruộng đất công cho đến tận thời hiện đại. Trong khi tỉ lệ ruộng công ở các tỉnh miền Trung thời thuộc Pháp là 25%, so với miền Bắc chỉ còn 24%, thì ở Thừa Thiên lại lên đến 56% (tỉnh có tỉ lệ ruộng công cao nhất ở miền Bắc là Thái Bình cũng chỉ có 35%). Trong sự phát triển thường đưa đến mâu thuẫn giữa tăng trưởng nhanh với công bằng xã hội. Phải chăng Huế đã quá nhấn mạnh đến công bằng xã hội để làm cho tăng trưởng bị chậm lại? (7). Theo GS Đào Thế Tuấn thì “xu hướng này đã ảnh hưởng mạnh đến tình hình xã hội nông thôn hiện nay của Huế. Vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước, trong khi các tỉnh phía nam rất khó tiếp thu mô hình hợp tác hóa của miền bắc, thì nông dân Huế rất dễ dàng chấp nhận. Nhưng đến khi chuyển đổi sang mô hình sản xuất theo kinh tế thị trường của thời kỳ Đổi mới thì Huế lại gặp rất nhiều khó khăn. Điều này đã kìm hãm tốc độ đổi mới của Huế không ít”. Phải chăng đó là một nét biểu hiện của văn hóa Huế?

Nếu trong thời kỳ còn bị chia cắt, các chúa Nguyễn và Huế là đại diện cho một xu thế phát triển mới, năng động hơn và cởi mở hơn, thì sau khi thống nhất đất nước đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn lại phải chịu áp lực xu hướng bảo thủ của các nho sĩ Bắc hà, quay trở lại đề cao Khổng giáo, điển hình là việc hàng tháng bắt dân nghe “giảng thập điều” từ triều Minh Mạng, khiến ngay dân chúng Bắc hà cũng phải phản ứng (8). Xu hướng bảo thủ đó càng thêm trầm trọng trước họa xâm lăng của thực dân Pháp, đưa triều đình đến chỗ quay lưng lại với mọi đề nghị cải cách. Tính bảo thủ đó của triều đình nhà Nguyễn hẳn đã in dấu lên văn hóa của người dân xứ Huế. Sống trong một không gian chật hẹp, ở một vùng đất được coi như “quan nhiều hơn dân”, người Huế buộc phải co mình lại, giữ một thái độ bàng quan, ít khi bộc lộ ý nghĩ của mình, hoặc phải nói ngược lại những điều mình suy nghĩ. Đó là tính cách hay “giả đò” của người dân Huế. Nhưng với bề ngoài chịu đựng, người Huế vẫn nung nấu một tinh thần đấu tranh rất mãnh liệt. Cho nên không lấy làm lạ rằng nhiều phong trào chống đối trong lịch sử hiện đại lại xuất phát đầu tiên ở Huế, đây là nơi ra đời tổ chức đầu tiên của phụ nữ Việt Nam năm 1926 (Nữ công học hội), cũng là nơi phát hành một trong hai tờ báo đầu tiên của phụ nữ là Phụ nữ tùng san, cùng thời với Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn năm 1929 (9), rồi trong thời kỳ chống Mỹ, Huế cũng là nơi có phong trào đấu tranh sục sôi nhất lôi kéo đủ mọi tầng lớp xã hội, từ thanh niên học sinh trí thức, cho đến người buôn bán ở chợ và các tầng lớp lao động khác.

Dù muốn hay không, hoàn cảnh thiên nhiên và xã hội cũng như truyền thống, đã tạo cho người Huế một lối sống và cách suy nghĩ riêng, trong đó có những nghịch lý và những mâu thuẫn, nhưng vẫn luôn tồn tại bên nhau. Đó là đặc trưng của văn hóa  Huế

______________

1. Keith Taylor, Nguyễn Hoàng và bước mở đầu cuộc Nam tiến của người Việt (1993), Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Nxb Trẻ, 2001.
2, 8. Li Tana, Xứ Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII (1998), Những vấn đề… sđd.
3. Pierre Poivre, Nhật ký hành trình… từ tháng 8-1749 đến 2-1750, dẫn theo Li Tana, sđd.
4. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb KHXH, 1990.
5. Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, 2003.
6. Chu Thuấn Thủy, Ký sự đến Việt Nam năm 1657, Hội KHLSVN, 1999.
7. Đào Thế Tuấn, Nghịch lý và mâu thuẫn của văn hóa Huế, Xưa & Nay, số 64, tháng 6-1999.
9. David Marr, Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945, California , 1984.

Nguồn: hoidantochoc.org.vn   (13/07/06)

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.