Ô nhiễm môi trường khu công nghiệp – Những vấn đề “nóng” đặt ra
Bức xúc ô nhiễm môi trường khu công nghiệp
Hiện nay, tình trạng khí thải, nước thải… tại các KCN đang ở mức báo động. Theo số liệu điều tra cho thấy, cả nước có trên 200 KCN đã đi vào hoạt động song chỉ có 60% doanh nghiệp vận hành hệ thống xử lý trong KCN và hiệu quả xử lý còn thấp, trong khi tổng lượng nước thải từ các KCN ước khoảng 1 triệu m 3ngày/đêm (chiếm 35% tổng lượng của cả nước). Hầu hết doanh nghiệp như hóa chất, phân bón, bia rượu, nước giải khát, giấy… đều phát sinh ô nhiễm. Lượng chất thải rắn phát sinh tại các KCN hiện lên tới 2,3 triệu tấn/năm, trong đó chất thải rắn nguy hại chiếm khoảng 20%... Phần lớn các doanh nghiệp chưa quan tâm tới kiểm soát, xử lý các khí độc hại; hệ thống đo đạc, kiểm soát cũng không được đầu tư.
Bên cạnh đó, môi trường xung quanh các KCN đang bị suy thoái nghiêm trọng. Khoảng hơn 70% trong số hơn một triệu m 3nước thải/ ngày từ các KCN được xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận không qua xử lý. Có đến 57% số KCN đang hoạt động không có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Không khí ở các KCN, nhất là các KCN cũ đang bị ô nhiễm, do các nhà máy trong KCN sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu chưa đầu tư hệ thống xử lý khí thải trước khi thải ra môi trường. Lượng chất thải rắn tại các KCN ngày càng gia tăng, vấn đề thu gom và xử lý chất thải tại các KCN còn nhiều bất cập, nhất là đối với việc quản lý, vận chuyển và đăng ký nguồn thải đối với chất thải nguy hại.
Ô nhiễm môi trường từ các KCN gây tác động xấu tới môi trường sinh thái tự nhiên. Nhất là nước thải không qua xử lý từ các KCN xả thải trực tiếp vào môi trường gây ra những thiệt hại không nhỏ tới hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản tại các khu vực lân cận. Ngoài ra, ô nhiễm môi trường từ các KCN làm gia tăng gánh nặng bệnh tật, gia tăng tỷ lệ người mắc bệnh đang lao động tại chính KCN và cộng đồng dân cư sống gần các KCN đó.
Nói về vấn đề ô nhiễm môi trường KCN, Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi Nguyên từng nhấn mạnh: “Những thách thức này nếu không được giải quyết tốt sẽ gây thảm họa về môi trường và biến đổi khí hậu, tác động nghiêm trọng đến đời sống, sức khỏe cộng đồng hiện tại và tương lai, phá hỏng những thành tựu công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội nói chung ở Việt Nam”.
Đối với vấn đề khí thải, các báo cáo giám sát môi trường gửi các cơ quan chức năng cho thấy, các thông số ô nhiễm khí thải đều xác định đã đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia. Tuy nhiên, qua các đợt thanh tra, kiểm tra lại cho thấy những kết quả trái ngược, nhiều doanh nghiệp đã có những hành vi vi phạm các quy định BVMT không khí, xả khí thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2-5 lần. Cụ thể, KCN Hiệp Phước, Vĩnh Lộc, Tân Tạo, Linh Trung… tại Tp. Hồ Chí Minh; KCN Mỹ Xuân A2, Phú Mỹ I tại Bà Rịa-Vũng Tàu…
Những giải pháp cấp thiết
Để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường từ các KCN, chúng ta cần nghiên cứu, điều chỉnh cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với lĩnh vực môi trường KCN; đồng thời tăng cường phân cấp cho ban quản lý KCN, khu chế xuất trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi trường gắn với cơ chế tăng cường phối hợp, hướng dẫn giữa các cơ quan trung ương và địa phương cũng như tăng cường bộ máy, nhân lực cho ban quản lý KCN, khu chế xuất, Sở TN&MT để thực hiện tốt hơn công tác BVMT KCN, khu chế xuất.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT, trong đó những chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lý hình sự) phải thực sự đủ mạnh để để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lý môi trường trong các nhà máy, các KCN theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.
Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, bảo đảm tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lý nói chung, quản lý môi trường nói riêng. Đối với các KCN, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lý nước thải, rác thải tại đó.
Tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc có cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó tới môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật BVMT, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và BVMT; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên, con người và xã hội./.








