Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 13/06/2011 21:54 (GMT+7)

Nuôi lợn rừng: Một hướng kinh doanh cần quan tâm đúng mức

Lợn rừng có vóc dáng cân đối, nhanh nhẹn, di chuyển linh hoạt, dài đòn, lưng thẳng, bụng thon, chân dài và nhỏ, cổ dài, đầu nhỏ, mõm dài và nhọn, răng nanh phát triển mạnh, da lông màu hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có 3 ngọn. Lợn rừng lai hơi nhút nhát, thính giác, khứu giác tốt, sinh hoạt bầy đàn và chọn lọc tự nhiên thể hiện tính hoang dã…, thích sống thành bầy đàn nhỏ vài ba con, lợn đực thường thích sống một mình. Môi trường sống thích hợp là vườn cây, trảng cỏ gần ao hồ… thích hoạt động về ban đêm, ban ngày tìm nơi yên tĩnh, kín đáo để ngủ, nghỉ…

Giống nuôi: Trên thế giới có nhiều giống, theo nghiên cứu thì lợn rừng có tới 36 giống và được phân bố rộng rãi, hầu như trên thế giới từ châu Âu, châu Á đến châu Mỹ và châu Phi. Ngày nay, lợn rừng đã được nuôi phổ biến ở nhiều nước trên thế giới nhưng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu có các loại như lợn rừng Thái Lan, lợn rừng Việt Nam và con lai giữa lợn rừng và lợn địa phương.

Đối với lợn rừng Thái Lan, có hai loại, lợn rừng Thái mặt dài và lợn rừng Thái mặt ngắn. Lợn rừng Thái mặt dài là loại tương đối giống lợn rừng Việt Nam, lợn con trước 3 tháng tuổi có sọc dưa đen-vàng trên thân (7 sọc đen và 6 sọc vàng), sống lưng sọc đen. Lợn càng thuần sọc càng rõ, liên tục không đứt quãng và đều, sau 3 tháng tuổi sọc vàng biến mất, nhưng lông toàn thân cũng thay đổi sang dạng nâu-bạc-mốc. Hai má có lông bạc, lợn trưởng thành có lông bờm, lợn đực có răng nanh khá phát triển, thân hình mảnh, chân cao, phía trước cao hơn phía sau. Lợn rừng Thái mặt ngắn, đặc điểm là to con, màu đen, thân tròn, đẻ nhiều con. Loại này tương đối giống với con lai giữa lợn rừng Việt Nam hoặc lợn rừng Thái lai với các giống lợn đen ở vùng cao. Theo một số nhà nghiên cứu, đó là lợn lai giữa lợn rừng thuần và các giống lợn địa phương vùng núi Thái Lan.

Đối với lợn rừng Việt Nam , nhóm lợn này do con người săn bắt, hoặc mang từ vùng cao về. Lúc trưởng thành, lợn rừng Việt Nam có thân hình mảnh mai, xù xì, cao hơn, tuy nhiên rất khó phân biệt với lợn rừng Thái. Do vậy, để phân biệt, cần phải theo dõi lý lịch rất chặt chẽ. Lợn rừng Việt cũng có tỉ lệ nạc cao hơn hẳn, lớp nạc nằm ngay dưới da.

Đối với các loại lợn tạp giao giữa lợn rừng Việt Nam hoặc lợn rừng Thái Lan với các loại lợn địa phương tại Việt Nam như lợn Sóc Tây Nguyên, lợn Vân Pa, lợn ỉ, lợn Móng Cái… Con lai một nửa thiên về bố (lợn rừng) và nửa thiên về mẹ, ngoại hình lợn con thế hệ F1 thường chia làm đôi, một số giống lợn rừng (lợn bố), lông có sọc, nhưng không đều, ngắt quảng, sọc đen-vàng và một nửa giống mẹ (lợn địa phương), thậm chí có vùng lang trắng hồng nếu mẹ là lợn Móng Cái. Mặt khác, do sự phân ly, con lai giữa lợn rừng và lợn đen vùng núi có một số cũng có lông sọc như lợn rừng và một số lợn không có cho nên dễ bị nhầm lẫn. Việc theo dõi lý lịch là cần thiết, không những để phân biệt mà còn để chọn lọc và tránh đồng huyết trong quá trình nuôi.

Do đặc điểm thịt của lợn rừng giòn, ít mỡ và có tính chất "núi rừng", vì vậy ngày càng có nhiều người muốn sử dụng chúng để làm thực phẩm. Hiện nay, hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước đều có tổ chức nuôi lợn rừng, quy mô nuôi của từng cơ sở nuôi có sự khác nhau, một số cơ sở có quy mô lớn, còn lại thường có quy mô nhỏ (dưới 100 con). Tại tỉnh Thừa Thiên Huế, hiện có trên 21 cơ sở tổ chức nuôi với quy mô nuôi từ 2 đến 100 con, bình quân 26 con/cơ sở nuôi.

Vì vậy, người chăn nuôi cần được sự giúp đỡ của những nhà chuyên môn thông qua những kết quả nghiên cứu, thực nghiệm để áp dụng vào sản xuất. Xuất phát từ lý do đó, năm 2008, Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế đã triển khai dự án khoa học và công nghệ cấp tỉnh "Thử nghiệm chăn nuôi lợn rừng ở Thừa Thiên Huế". Dự án đã được Hội Làm vườn thành phố Huế chủ trì thực hiện từ tháng 11 năm 2008 đến tháng 9 năm 2010 với quy mô gồm 2 mô hình, mô hình nuôi lợn sinh sản được thực hiện tại 2 điểm nuôi, xã Hương Hồ (huyện Hương Trà và huyện Phong Điền) số lượng lợn nuôi gồm 12 lợn nái sinh sản và 4 lợn đực có độ tuổi từ 8 tháng tuổi trở lên. Mô hình lợn nuôi thịt được thực hiện tại 1 điểm nuôi (phường Thủy Châu), số lượng lợn nuôi gồm 40 con có độ tuổi từ 3 đến 8 tháng tuổi.

Qua quá trình thực hiện dự án, chúng tôi rút ra được một số kết luận. Để tổ chức nuôi 8 đến 16 con lợn sinh sản hoặc nuôi 40 lợn thịt/năm thì cần 162,8 đến 328,1 triệu đồng tiền vốn đầu tư để nuôi lợn sinh sản hoặc 213,1 triệu đồng để nuôi lợn thịt. Cần có diện tích từ 500 đến 1.000m 2để nuôi, trong đó diện tích chuồng nuôi có mái che là 75 đến 150m 2để nuôi lợn sinh sản, trong đó có 100m 2chuồng có mái che để nuôi lợn thịt. Sản phẩm thu được là mô hình nuôi lợn sinh sản, có sản phẩm là lợn con cai sữa lúc 2 tháng tuổi gồm 155 con/647 kg hoặc sản phẩm lợn thịt hơi lúc 8 tháng tuổi gồm 36 con/677,6kg trọng lượng tăng. Cần 5,35 tấn thức ăn để nuôi lợn sinh sản hoặc 2,4 tấn để nuôi lợn thịt (gồm cám gạo, hạt ngô, hạt bo bo, bã bia khô, thức ăn đậm đặc dạng bột Lái Thiêu…) và 36,511 tấn thức ăn thô, xanh để nuôi lợn sinh sản và 14,27 tấn để nuôi lợn thịt (gồm rau tươi, củ quả tươi các loại và các loại rau thô, xanh khác…).

Một số chỉ tiêu kỹ thuật: Số lứa đẻ là: 2 lứa/nái/năm, số lứa xuất lợn thịt/2 lứa (lúc 8 tháng tuổi); tỷ lệ nuôi sống: 89% đối với lợn con theo mẹ, 90% lợn nuôi thịt. Một số chỉ tiêu về kinh tế: Giá thành sản phẩm là: 166.000đ/kg lợn con lai sữa và 89.000đ/kg lợn thịt; với mức giá bán bình quân trong những năm 2008, 2009 và 2010 là 250.000đ/kg lợn giống nuôi sinh sản, 200.000đ/kg lợn giống nuôi thịt và 110.000đ/kg lợn thịt thì tỷ lệ lãi so với chi phí đầu tư là 22 đến 28% đối với mô hình nuôi lợn thịt. Thời gian thu hồi vốn đầu tư ban đầu đối với mô hình nuôi lợn sinh sản là: 6,5 năm và dưới 4 năm đối với mô hình nuôi lợn thịt.

Trên đây là một số kết quả mà chúng tôi đã thu được từ quá trình thực hiện dự án. Tuy nhiên qua quá trình thực hiện dự án cũng như thu thập được những ý kiến của các chuyên gia, của những người hiện đã và đang chăn nuôi lợn rừng trên cả nước, chúng tôi nhận thấy việc tổ chức chăn nuôi lợn rừng, thoạt nghe qua, ai cũng nghĩ là nuôi đơn giản và dễ thu được sự thành công. Quả thực việc nuôi lợn rừng là đơn giản, nhưng nó chỉ đơn giản hơn so với chăn nuôi lợn nhà. Nhưng bên cạnh đó, nó đòi hỏi phải có một số điều kiện khác mà nếu không có thì việc chăn nuôi lợn rừng sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, người nuôi lợn rừng cần có một số lưu ý sau.

Thứ nhất, khu vực chăn nuôi lợn rừng phải rộng rãi, thoáng mát, không ẩm ướt, tốt nhất nên là sườn đồi có nhiều cây xanh, bóng mát và xung quanh nên được rào cản cẩn thận bằng gạch hoặc lưới sắt B40 (cao khoảng 1,5m). Khu chăn nuôi phải được chia thành từng ô nhỏ để nuôi các đối tượng khác nhau như lợn chửa, lợn đẻ, lợn con, lợn hậu bị, và lợn đực cần được nhốt riêng để tiện chăm sóc, nuôi dưỡng, đảm bảo đủ nhu cầu sinh trưởng và phát triển của lợn.

Các khu vực chăn nuôi cần được thiết kế liên hoàn, có đường liên thông nối các ô để tiện việc di chuyển lợn. Cụ thể trong mỗi khu vực chăn nuôi nên có chuồng với diện tích đủ rộng, ít nhất là 2m 2/con, xung quanh phải thoáng mát, không ẩm ướt, ấm về mùa đông; nền chuồng phải cao hơn mặt đất khoảng 30cm và có thể làm bằng xi măng để dễ quét dọn, vệ sinh chuồng trại, đồng thời bổ sung rơm rạ cho lợn đủ ẩm vào mùa đông. Chuồng nên có cửa để có thể nhốt lợn khi thời tiết quá khắc nghiệt. Sân chơi phải có được diện tích rộng nhất có thể, ít nhất là 5m 2/con. Ở sân chơi có chỗ cho lợn ăn, nằm, tắm. Hệ thống tắm có thể làm bằng vòi phun nước trực tiếp hoặc xây bể nhỏ. Cần phải thả tự do cho lợn rừng, trừ trường hợp đặc biệt phải nhốt.

Thứ hai, phải có kiến thức cơ bản về chăn nuôi lợn rừng, tuyệt đối không thể nghĩ rằng khi đã nuôi được lợn nhà thì ắt sẽ nuôi thành công lợn rừng vì lợn rừng nuôi đơn giản hơn lợn nhà. Bởi lẽ việc chăn nuôi lợn rừng thường gặp phải những khó khăn. Vì vậy, người nuôi cần phải biết cách chọn giống. Có nhiều người chưa có nhiều kiến thức về nuôi lợn rừng, thường chỉ nghe nói sơ qua về đặc điểm chung của lợn rừng, như có ba lỗ chân lông, lông của lợn con có sọc dưa… nên khi xem giống cứ thấy lợn con có sọc dưa là mua mà không cần biết giống tốt, xấu thế nào, điều này rất ảnh hưởng về sau. Vì dù rằng con giống có sọc dưa (ngoại hình) nhưng yếu tố di truyền từ bố (lợn rừng) có thể là thấp thì kết quả sau này sẽ không cao do không đáp ứng được tiêu chí "tính chất lợn rừng" cao trong sản phẩm và sẽ không bán được sản phẩm kể cả lợn thịt thương phẩm.

Phải biết định lượng giá trị dinh dưỡng có trong thức ăn cung cấp cho lợn nhằm đảm bảo có được một lượng giá trị dinh dưỡng hợp lý. Lợn rừng ăn rất tạp, có khả năng tận dụng rất tốt nguồn cây củ quả, đó là yếu tố để giảm giá thành, nhưng không phải cái gì chúng cũng ăn và cái gì ăn cũng giúp chúng đầy đủ dưỡng chất và tăng trọng. Thức ăn của lợn, chủ yếu dùng thức ăn thô xanh, thức ăn tinh và nên cho ăn 2 bữa/ngày. Khẩu phần ăn cho từng đối tượng lợn là khác nhau, cần lưu ý rằng, đối với lợn nái nuôi con luôn luôn phải đảm bảo cung cấp đầy đủ thức ăn thô xanh cũng như thức ăn tinh để có đủ sữa nuôi con. Trong trường hợp thức ăn thô xanh không đảm bảo chất lượng và số lượng, thì bổ sung thức ăn tinh (cám gạo, bột ngô, bột củ sắn, hạt bo bo, thậm chí là bổ sung cám bột đậm đặc). Đối với lợn con cai sữa, cần cho thức ăn đảm bảo chất lượng, và cho ăn tăng dần theo tuổi. Đối với các loại khác như lợn thịt, hậu bì.. cần tăng cường cho ăn rau xanh, củ quả các loại. Một điều cần lưu ý thêm trong việc cung cấp nguồn dinh dưỡng cho lợn, đó là do diện tích chuồng nuôi bị giới hạn rất nhiều so với diện tích mà lợn được sống tự nhiên bên ngoài, vì vậy việc tự tìm kiếm các chất vi, đa lượng để cung cấp cho nhu cầu sẽ bị thiếu hụt trầm trọng. Do đó cần bổ sung khoáng cho đàn lợn nuôi bằng loại "đá liếm" mua ở các cửa hàng thuốc, thức ăn thú y.

Ngoài ra, phải biết cách thức ghép cặp đực/cái và phối giống. Phối giống cần theo phương pháp tự nhiên. Lợn đực nên nuôi nhốt riêng, thời điểm cần phối giống thì dẫn lợn cái vào chuồng và sau khi phối giống thành công thì đưa lợn cái ra. Tất cả lợn phải được đánh số tai như lợn công nghiệp để theo dõi, ghi chép sổ sách đầy đủ cho từng cá thể để có cơ sở chọn lọc nhằm tăng số lượng con đẻ ra, số con nuôi sống cũng như để duy trì và nâng cao những đặc điểm, phẩm chất tốt của lợn rừng theo tiêu chí của mỗi một chủ thể nuôi.

Thứ ba, cần phải xác định năng lực về nguồn vốn. Việc xác định năng lực nguồn vốn để đầu tư không những chỉ về vốn đầu tư vào các yếu tố có tính chất tài sản cố định như con giống, chuồng trại… mà còn phải chú ý đến các yếu tố có tính chất tài sản lưu động như thức ăn, thuốc thú y, chi trả nhân công và một số chi phí dự phòng khác. Thực tế cho thấy nhiều cơ sở nghĩ rằng việc chăn nuôi lợn rừng đơn giản, ăn gì cũng được, ít bệnh tật nên chỉ tập trung huy động vốn để đầu tư mua sắm những yếu tố có tính chất tài sản cố định mà ít chú ý đến những yếu tố có tính chất tài sản lưu động nên trong quá trình nuôi dưỡng, do thiếu tiền đã buộc phải bớt xén, cắt giảm một số chi phí, từ đó đã làm cho đàn lợn rơi vào tình trạng xơ xác, rơi rụng và tất nhiên là gặp phải sự thiệt hại mà nguyên nhân chính là do thiếu khả năng về tài chính. Việc xác định nguồn lực về tài chính, cần xem xét đến tất cả các yếu tố chi phí như đã đề cập, đồng thời cũng phải dựa vào quy mô cơ cấu đàn lợn dự kiến nuôi.

Thứ tư, phải tìm kiếm và tạo lập mối quan hệ với các đối tác trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Nhiều người quyết định nuôi vì nghe theo những thông tin "quá ngọt" cho rằng nuôi lợn rừng là "hốt bạc, lãi to…" mà không lường hết những khó khăn trong quá trình nuôi và việc tiêu thụ của sản phẩm ra sao, nên sau khi nuôi, có được sản phẩm rồi không biết bán cho ai và bán ở đâu. Vì rằng sản phẩm lợn rừng không phải là loai sản phẩm thiết yếu đối với đời sống con người hiện nay, mà nó là loại sản phẩm có tính "cao cấp" do vậy, kênh phân phối sản phẩm là rất hẹp.

Như vậy cho thấy, việc xác định quy mô đàn lợn nuôi là một chỉ tiêu phụ thuộc vào nhân tố "khả năng tiêu thụ sản lượng" và nhân tố "nguồn lực về vốn của chủ thể", còn chỉ tiêu về chi phí sản xuất lại phụ thuộc hoàn toàn vào nhân tố "kỹ thuật và giá cả đầu vào" và nhân tố "quy mô sản xuất". Đây là mối tương quan giữa các nhân tố trong sản xuất mà người chăn nuôi cần quan tâm đến trước khi bắt tay vào tổ chức chăn nuôi lợn rừng.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

VUSTA nhận Bằng khen của Bộ Ngoại giao vì những đóng góp tiêu biểu trong công tác đối ngoại nhân dân 2025
Phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác đối ngoại nhân dân 2025, Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh khẳng định đội ngũ trí thức KH&CN đã có những đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của công tác đối ngoại nhân dân 2025. VUSTA cam kết tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong đối ngoại nhân dân, góp phần thúc đẩy hợp tác quốc tế về KH&CN, ĐMST&CĐS trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.