Nuôi cầy hương
Cầy hương thường sống thành từng bầy trong rừng rậm, chúng leo trèo nhanh nhẹn, chủ yếu ăn hoa quả trên cây. Thịt cầy hương ăn rất thơm mềm và ngọt, vì thế cầy hương là món đặc sản trong các nhà hàng có giá rất cao (khoảng 300-320 nghìn đồng/kg). Sản phẩm cầy hương trong tự nhiên ngày càng khan hiếm.
Trung bình nuôi một đôi cầy hương trong 4-6 tháng cho thu lãi khoảng 2-3 triệu đồng. Để giúp bà con nuôi cầy hương đạt kết quả cao, chúng tôi giới thiệu kinh nghiệm như sau:
Chuồng trại
Chuồng (cũi) nuôi cầy hương được bố trí trong nhà. Nhà nuôi cầy hương làm theo hướng đông nam, mái lợp ngói mũi, cao ráo, thoáng mát, có hệ thống cửa sổ đóng mở thuận lợi, có lắp đặt quạt thông gió, đảm bảo đông ấm, hè mát.
Trong chuồng có thiết kế giàn nhiều tầng (2-3 tầng) bằng bê tông hay tre, gỗ chắc chắn để chứa cũi nhốt cầy, mỗi tầng cao 0,7-0,8m. Các cũi để trên một tầng phải được ngăn kín bằng tấm các tông màu để cầy trong hai cũi không trông thấy nhau, chống hiện tượng stress. Nền từng tầng được làm bằng bê tông hơi dốc (khoảng 5-6°) về một phía, phía có rãnh thoát nước tiểu của nền chuồng. Thông thường cũi nhốt cầy được làm kiên cố bằng lưới sắt B40 hoặc đan bằng tre, bưng bằng gỗ, cửa có then cài chắc chắn, để cầy không chui ra được.
Mỗi cũi hình hộp chữ nhật có thể tích 1m 3(rộng 1m, dài 2m, cao 0,5m, có 4-6 chân cao 0,2m), có thể nuôi được 2-3 con. Đáy cũi phải đan bằng các nan sắt hay tre, gỗ chắc chắn và thưa (cách nhau 7-10cm) để phân lọt xuống nền tầng, khi vệ sinh dọn phân được dễ dàng.
Chọn giống nuôi: Thông thường cầy hương giống có trọng lượng 1,0-1,5kg/con, hiện nay giá 350.000đ/kg cầy giống. Chọn những con nhanh nhẹn, không bị thương, bị tật, lông mượt, mắt, mũi nhanh nhẹn, tinh tường.
Cầy hương nếu được chăm sóc tốt, tăng trọng rất nhanh, có thể đạt 0,7-1,0kg/con/tháng. Khi cầy đạt trọng lượng 4-6kg thì xuất bán theo nhu cầu của khách hàng.
Chăm sóc, nuôi dưỡng: Cầy hương hoạt động và ăn chủ yếu vào ban đêm, nên cho cầy ăn bữa tối là chính, bữa sáng là phụ.
Tập cho cầy ăn thức ăn nhân tạo: Bản tính tự nhiên của cầy là ăn hoa, quả, kiến, mối, trứng chim…Muốn nuôi cầy ta phải mất thời gian rèn cho chúng ăn thức ăn hoàn toàn mới lạ đối với bản năng tự nhiên của chúng, việc này phải tiến hành từ từ, kiên trì trong 5-10 ngày cầy mới chịu ăn no.
Trước tiên ta để cầy nhịn đói trong 1-2 ngày, sau đó cho chúng ăn chuối chín (bóc vỏ để cả quả, 1-2 quả/con/bữa) trộn lẫn với cháo đường (cho tương đối ngọt như nấu chè) nấu nhuyễn. Ban đầu cầy chỉ ăn chuối và liếm cháo đường bám xung quanh, cho ăn như vậy khoảng 4-5 bữa. Sau đó nghiền nhuyễn chuối chín với cháo đường cho ăn trong 1-2 ngày. Khi cầy ăn no, cho ăn cháo đường trước, hoa quả ăn bổ sung sau.
Để tăng trọng nhanh cần rèn cho cầy ăn cháo đường ninh nhừ với thịt các loại động vật như lợn, cá… và bổ sung thêm B.complex loại tốt, cám gà đậm đặc cao đạm, loại chất lượng cao do các nhà máy chế biến thức ăn lớn có uy tín trong nhiều năm sản xuất như: Proconco, Guyomarch, AFP, CP Group,…
Vệ sinh chuồng trại: Mỗi ngày cần phải dọn phân sạch sẽ cho cầy. Nước tiểu được thoát ra ngoài qua hệ thống rãnh bố trí khi thiết kế chuồng, đảm bảo chuồng luôn sạch sẽ, tránh ô nhiễm môi trường nuôi.
Phòng chống bệnh cho cầy: Cầy hương trong điều kiện nuôi dưỡng nhân tạo rất mẫn cảm với các loại thức ăn mới lạ. Khi thay đổi thức ăn chúng thường hay bị bệnh tiêu chảy, phân không thành khuôn, loãng, nhiều nước. Nên phòng bệnh tiêu chảy bằng cách, cho cầy uống thuốc kháng sinh phòng bệnh bằng cách trộn với thức ăn.
Cầy hương cũng có thể bị bệnh cầu trùng (phân lẫn máu) hoặc bị bệnh thương hàn (sốt cao, phân lỏng màu vàng) như các loại gia súc gia cầm khác. Ta có thể điều trị bằng các loại thuốc thú y phòng chữa cho gia súc, gia cầm của các hãng sản xuất thuốc thú y có uy tín (trộn lẫn với thức ăn) như các hãng: Bi-O, Thú y xanh Việt Nam, NaFa, VIMEDIM… Liều lượng tính lượng thuốc/kg thể trọng, tương tự như liều dùng đối với gia cầm. Với thuốc uống theo kinh nghiệm của nhiều hộ nuôi cầy lâu năm cho biết, nên tăng gấp 3 lần so với hướng dẫn trên bao bì gói thuốc thì mới nhanh khỏi bệnh.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 85 (1803),24/10/2005.