Những yếu tố tác động trí thức trẻ đến làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh (Kỳ 1)
TP. HCM là trung tâm, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam , luôn là địa phương đứng đầu cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với vị trí quan trọng đó, TP. vừa có khả năng tạo ra năng lực nội sinh to lớn, đồng thời có sức lan toả, thu hút nguồn lực từ nhiều nơi, giữ vai trò động lực thúc đẩy sự phát triển cho nhiều vùng khác của các nước. Hiện nay, ngoài lực lượng lao động tại chỗ, còn có nhiều nguồn lao động từ các tỉnh thành đến thành phố làm việc và sinh sống, trong đó có đội ngũ lao động trí thức trẻ. Lực lượng lao động trí thức trẻ chuyển đến từ nhiều nguồn khác nhau: sinh viên sau khi học tập và ở lại thành phố làm việc; lao động có trình độ học vấn, tay nghề cao từ các tỉnh thành đến tìm kiếm cơ hội việc làm và cơ hội phát triển kinh tế, nâng cao chuyên môn tay nghề; trí thức trẻ Việt kiều về nước tự mở công ty, hoặc hợp tác với các tổ chức trong nước nghiên cứu, giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm, làm việc trong các công ty xuyên quốc gia, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức phi chính phủ… Đội ngũ lao động trẻ này tham gia hoạt động trong hầu hết các nhóm xã hội - nghề nghiệp như khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học nông – lâm – ngư nghiệp, y - dược, nghiên cứu, giảng dạy, văn học nghệ thuật, nhà báo, lãnh đạo và quản lý…
Bài viết được hình thành dựa trên kết quả đề tài nghiên cứu năm 2008 “Nghiên cứu lao động trí thức trẻ đến làm việc tại TP. HCM hiện nay”, của Viện Nghiên cứu Xã hội, do Trần Văn Phương chủ nhiệm. Trên cơ sở khảo sát bảng hỏi và phỏng vấn sâu (gồm 250 phiếu hỏi và 10 phỏng vấn sâu), trí thức trẻ đến từ các tỉnh/thành trong cả nước; doanh nghiệp tư nhân; công ty, doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên phân tầng, trong đó được phân bố như sau: Nam giới chiếm 52,8%, nữ giới chiếm 47,2%; độ tuổi từ 20-25 chiếm 57,2%; từ 26-30 chiếm 40,4%; từ 31-35 chiếm 2,4%; thời gian làm việc tại thành phố: từ 1-5 năm chiếm 72,8%; từ 6-10 năm chiếm 27,2%; Tình trạng hộ khẩu: KT3: 63,7%, KT4: 36,3%. Qua khảo sát, bài viết phân tích, đánh giá những động lực tác động đến trí thức trẻ chọn thành phố Hồ Chí Minh làm nơi làm việc, lập nghiệp, sinh sống và định cư lâu dài.
1. Động lực kinh tế
Những thành quả đi đầu trong phát triển kinh tế, thị trường lao động dồi dào, môi trường làm việc năng động của TP. HCM tạo nên một sức hút lớn đối với người lao động từ các tỉnh khác. Những người từ các tỉnh/thành về TP. HCM tìm việc làm do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng lý do về kinh tế là chủ yếu. Trong cuộc điều tra “Di dân nông thôn thành thị từ Cần Giuộc (Long Anh) lên TP. HCM” do Viện Kinh tế thành phố tiến hành từ năm 1999-2002 cho thấy, đại đa số các hộ gia đinh có người thân di chuyển về TP. HCM đều nói lên nguyện vọng được giảm nghèo, đỡ khó khăn. Họ xem đó như là một chiến lược sinh tồn của gia đình. Đối với sinh viên, khi tốt nghiệp ra trường, trí thức trẻ ở các tỉnh khác khi quyết định sinh sống và làm việc tại TP. HCM có phải do yếu tố kinh tế là điều kiện quan trọng nhất hay không?
Do trình độ phát triển kinh tế, xã hội không đồng đều, nên mức chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng trong cả nước có xu hướng ngày càng tăng. Thừa lao động, thiếu việc làm ở các tỉnh khó khăn, các tỉnh có nền kinh tế chậm phát triển là một trong những nân tố khiến trí thức không trở về quê hương. Có thể thấy, những địa điểm trí thức di chuyển đến là những thành phố lớn, cơ sở hạ tầng thuận lợi đảm bảo có mức sống khá, môi trường làm việc tốt và có điều kiện phát triển nghề nghiệp. Những thành phố như Hà Nội, TP. HCM, Đà Nẵng… được lực lượng trí thức trẻ lựa chọn khi muốn lập nghiệp và sinh sống khi không muốn về quê.
![]() |
Như vậy, lý do di chuyển của trí thức đến TP. HCM chịu sự tác động của cà “lực đẩy” và “lực hút”. Yếu tố không thuận lợi tạo lực đẩy đó là vấn đề thất nghiệp, hoặc có việc làm nhưng không ổn định, thu nhập thấp, môi trường làm việc không phù hợp, không có điều kiện phát huy khả năng chuyên môn nghề nghiệp. Yếu tố thuận lợi tạo lực hút của TP. HCM đó là thị trường kinh tế năng động, tìm được việc làm tương đối dễ dàng, điều kiện phát triển nghề nghiệp cao.
Nguồn gốc xuất thân của trí thức trẻ đến TP. HCM chủ yếu là ở thị trấn, làng xã (chiếm 64,4%). Hoàn cảnh gia đình của đội ngũ lao động này tương đối khó khăn, chủ yếu là làm nông nghiệp, sản xuất, buôn bán nhỏ. Từ nguồn gốc xuất thân và hoàn cảnh gia đình đòi hỏi họ phải nhanh chóng tìm việc làm, có thu nhập để đảm bảo đời sống bản thân và phần nào giúp đỡ cho gia đình. Do đó, phần lớn các ý kiến cho r ằng, gia đình ủng hộ việc ở lại thành phố làm việc và sinh sống của đội ngũ này. Trong đó có 24,8% hoàn toàn ủng hộ, 48,8% ủng hộ, 22,4% gia đình không có ý kiến mà tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của cá nhân và chỉ có 4,0% là không ủng hộ.
Để ở lại thành phố, đòi hòi trí thức nhập cư phải nhanh chóng tìm việc làm nhằm đảm bảo đời sống của bản thân và một phần giúp đỡ cho gia đình. Vì lẽ đó, các ý kiến được hỏi cho rằng, mức độ quan trọng của việc làm là: 60,8% rất quan trọng, 37,2% cho là quan trọng, chỉ có 2,0% không quan trọng việc làm. Việc làm đã tạo nên thu nhập cho bản thân người trí thức nhưng đồng thời họ còn phải phụ giúp gia đình về kinh tế như: gửi tiền về quê cho bố mẹ, hỗ trợ anh em ăn học, mua sắm dụng cụ sản xuất, trang thiết bị cho gia đình… Với mức lương nhận được, lao động trí thức trẻ nhập cư cần phải trang trải những nhu cầu thiết yếu của bản thân như tiền thuê nhà, ăn uống, sinh hoạt, phương tiện nghe nhìn, đi lại… họ còn phải thực hiện trách nhiệm với gia đình là gửi tiền về quê (41,6%). Đây vừa là trách nhiệm và cũng là bổn phận của người con đối với gia đình sau nhiều năm được gia đình nuôi ăn học và trưởng thành.
Mức lương tối thiểu của một trí thức trẻ vừa ra trường làm việc trong các đơn vị của Nhà nước hiện nay được tính theo hệ số là 2,34 x 830.000 đồng. Như vậy, hằng tháng, thu nhập tối thiểu của mỗi người gần 2.000.000 đồng. Có thể thấy, với mức lương khoảng 2.000.000 đồng không đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tối thiểu, do đó, có rất ít trí thức trẻ nhập cư làm việc tacị các cơ quan hành chính Nhà nước. Số lượng trí thức ít làm việc tại các cơ quan hành chính của thành phố ngoài nguyên nhân là phải có hộ khẩu (KT1 hoặc KT2) mới xét biên chế, thì tiền lương là điều kiện đáng quan tâm. Vì mức lương trong các cơ quan hành chính Nhà nưwcs không thể đảm bảo cho đời sống của người trí thức nhập cư và phụ giúp gia đình nên họ thường lựa chọn những ngành nghề, đơn vị công tác có mức lương tương đối để đảm bảo thu nhập cho bản thân và trợ giúp cho gia đình.
![]() |
Do điều kiện xuất thân ở các vùng quê và trong gia đình tương đối khó khăn, cùng với tính cách chịu khó, cần cù, tiết kiệm, năng động, cầu tiến nên người trí thức nhập cư nhanh chóng thích nghi với điều kiện sống và làm việc ở thành phố. Họ luôn tích cóp tài chính để gửi về quê hoặc làm vốn kinh doanh, mua đất, mua nhà cho tương lai. Có thể thấy, đối với đội ngũ trí thức mới lập thân ở thành phố thì cuộc sống khó khăn hơn những người đã sinh sống từ 5 năm trở lên. Những người vừa mới ra trường hoặc mới đến thành phố lập nghiệp việc làm có sự bấp bênh, không ổn định, mức lương tương đối thấp. Nhưng sau vài năm làm việc, đời sống của họ dần đi vào ổn định, tiền gửi về phụ giúp gia đình nhiều hơn, có điều kiện mua đất, mua nhà định cư lâu dài ở thành phố.
Tuy nhiên, sự tích luỹ vốn của bản thân người trí thức vẫn còn thấp nên họ có thể mở các cửa hàng, doanh nghiệp nhỏ, hoặc liên kết với bạn bè mở công ty… Muốn đảm bảo cuộc sống lâu dài và ổn định, việc trước tiên khi có ít vốn thì phần lớn trí thức nhập cư cho rằng cần phải mua đất, mua nhà để ở, vì phần lớn là ở nhà thuê hoặc ở nhờ. Theo khảo sát, nhà đất ở của trí thức nhập cư chủ yếu tập trung ở các quận, huyện ngoại thành và phần lớn là đất nông nghiệp chưa chuyển mục đích sử dụng. chỉ có một bộ phận nhỏ trí thức sinh sống ở thành phố lâu dài (trên 5 năm) và làm việc ở các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, những ngành nghề có mức thu nhập cao như công nghệ phần mềm, bưu chính viễn thông, công ty nước ngoài hoặc những người được gia đình trợ giúp vốn làm ăn thì đời sống khá giả hơn, họ nhanh chóng mua nhà, có đầy đủ tiện nghi và sớm hoà nhập lối sống đô thị. Tuy nhiên, khi họ đạt được các điều kiện như có nhà ở, việc làm ổn định, sinh sống lâu dài thì đã đăng ký hộ khẩu ở thành phố (đây không phải đối tượng nghiên cứu).
Theo khảo sát về mục tiêu của trí thức trong thời gian 5 năm tới, trong đó có 67,2% cho rằng cần phải kiếm thật nhiều tiền, 49,2% muốn học thêm (cao học, tiến sỹ, nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính), 17,2% muốn cống hiến cho xã hội (làm công tác từ thiện, các công việc hướng về cộng đồng…), 16,4% ý kiến muốn tìm kiếm công việc tốt hơn và có 11,2% cho rằng sau một thời gian tích luỹ kinh nghiệm thì họ muốn về quê lập nghiệp.
Như vậy, dự định của đội ngũ trí thức ở giai đoạn hiện tại cũng như trong thời gian tới thì vấn đề kinh tế, làm việc để có nhiều tiền là những lựa chọn được nhiều người nghĩ đến nhất. Đây là mục tiêu, kế hoạch làm việc, cũng như lý do chọn thành phố sinh sống của trí thức trẻ nhập cư. Tuy nhiên, có điều cần lưu ý là không giống như lực lượng nhập cư lao động phổ thông thì yếu tố kinh tế chi phối toàn bộ nguyên nhân đến thành phố sinh sống, nhưng đối với lực lượng trí thức trẻ nhập cư, ngoài nguyên nhân kinh tế thì còn nhiều yếu tố khác tác động như điều kiện môi trường làm việc tốt, cơ hội tiếp thu kinh nghiệm, thăng tiến, cơ hội họchành, đời sống đô thị phát triển… (xem tiếp kỳ sau)










