Những ý kiến phản biện về ĐH đẳng cấp quốc tế
GS.TSKH Mai Trọng Nhuận, phó giám đốc ĐHQG Hà Nội: Cần phân biệt “trường ĐH quốc tế” và “trường ĐH đẳng cấp quốc tế” |
Xây dựng một trường ĐH ĐCQT, theo tôi, có thể căn cứ vào 11 tiêu chí sau để xác định và lựa chọn phương án:
1. Thời gian cần thiết để đạt mục tiêu có chất lượng nghiên cứu và đào tạo đạt ĐCQT.
2. Thời gian cần thiết để tạo uy tín và thương hiệu: đánh giá về uy tín và thương hiệu của xã hội chứ không phải do trường tự đưa ra.
3. Kinh phí đầu tư.
4. Khả năng thu hút các nguồn lực như giáo viên, tài chính, SV...
5. Khả năng kế thừa di sản, nguồn lực, cơ sở vật chất hiện có.
6. Khả năng áp dụng qui trình, chương trình, công nghệ đào tạo mới, phương thức quản lý đào tạo...
7. Dung hòa lợi ích của các bên nội tại trong cơ sở đào tạo.
8. Sự níu kéo, cản trở của tư duy lạc hậu, tính bảo thủ, nếp làm cũ...
9. Tính dị biệt so với hệ thống giáo dục ĐH.
10. Tính tương thích so với hệ thống giáo dục ĐH và khả năng nhân rộng mô hình này.
11. Xác suất thành công trên thế giới.
Phương án nâng cấp từ một/một số trường hiện có sẽ có lợi thế hơn so với phương án xây dựng mới hoàn toàn ở các tiêu chí 1, 2, 3, 4, 5, 9 và 10. Đối với ba tiêu chí 6, 7 và 8 còn lại sẽ có hai “kịch bản”: Thứ nhất, nếu như không có một cơ chế, không có một thủ lĩnh (hiệu trưởng, giám đốc) đủ bản lĩnh để triển khai những mô hình đào tạo, quản lý mới, dung hòa, trấn áp được các bên có lợi ích liên quan thì phương án nâng cấp sẽ không có ưu thế bằng phương án xây mới.
Thứ hai, có được cơ chế đặc biệt, có thủ lĩnh như ta đang dự kiến trao cho trường ĐH ĐCQT, hai phương án sẽ có triển vọng như nhau. Và cuối cùng là xét theo tiêu chí 11, theo phương án nâng cấp có nhiều ví dụ thực tế thành công hơn hẳn phương án xây mới. Những ví dụ điển hình là ĐH Quốc gia Singapore (đã trở thành trường đứng thứ 24 trong số 500 trường ĐH hàng đầu thế giới, xếp hạng năm 2005), Trường ĐH Thanh Hoa, ĐH Bắc Kinh (Trung Quốc), ĐH Tokyo, ĐH Kyoto (Nhật Bản), ĐH Trinity (Ireland)...
Những ví dụ của phương án xây mới trên thế giới như ĐH Bremen (Đức) hay ĐH Trung Âu (Hungary)... chưa đủ sức thuyết phục, chúng ta cần phân biệt một trường ĐH quốc tế (international university) với một trường ĐH “đẳng cấp quốc tế” (world-class university).
GS.TS Trần Hồng Quân, chủ tịch Hiệp hội Các trường ĐH, CĐ ngoài công lập: Không nên xây mới!
Không nên bắt đầu xây dựng một trường ĐH nào khác để vươn lên ĐCQT như đề án đổi mới giáo dục ĐH ViệtNamđã đưa ra. Nên tập trung vào hai ĐHQG Hà Nội và TP.HCM để những trường này thật sự trở thành đầu đàn cho nền ĐH nước nhà. Nếu lập luận rằng xây dựng trường ĐH ĐCQT từ hai ĐHQG thì sẽ có sức ì, ai bảo đảm một ĐH mới sẽ năng động hơn nếu nó vẫn sống trong cơ chế và môi trường hiện nay, điều khiển nó cũng là đội ngũ không có gì khác hai ĐHQG?
Nếu thấy không hài lòng, ta lại xây dựng mới một ĐH thứ tư nữa để hi vọng sao? Nếu đã tạo được một cơ chế thoáng để có thể có nhiều ĐH khác vươn lên mạnh mẽ thì biết đâu có một ĐH ngoài dự định sẽ trở thành hàng đầu?
Muốn có một trường ĐH ĐCQT thì khuôn viên của trường tối thiểu cũng phải 150-200 hecta, tìm và giải tỏa được một khu vực như thế ở Hà Nội và TP.HCM tới khi nào mới có để xây trường mà bộ đặt mục tiêu đến 2008 đã bắt đầu tuyển sinh? Người làm ở trường đó lấy từ đâu ra, nếu không “bốc” mất những người giỏi từ trường này trường kia, chưa thấy ĐCQT đâu nhưng đã làm suy yếu những trường ĐH mạnh hiện có.
Tôi thấy xây mới một trường với mục tiêu 2008 đã đi vào hoạt động hoàn toàn không khả thi. Tôi đồng tình với GS Trần Hồng Quân, nên chọn lựa đầu tư cho trường hiện có để tiến tới đẳng cấp quốc tế. ĐH ViệtNammà có cơ chế thoáng và kinh phí lớn thì đều có thể trở thành đẳng cấp quốc tế. Hiện nay hai ĐHQG và một vài trường khác cũng có năm bảy phần tự chủ về cơ chế rồi, có thêm kinh phí đầu tư và chính sách phát triển nữa, họ có thể trở thành “đẳng cấp quốc tế”...
Tôi không cho rằng việc xây mới và việc nâng cấp các trường hiện có lại có tính loại trừ lẫn nhau. Suy đến cùng, mục đích quan trọng nhất là cải cách hệ thống giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu của đất nước và theo kịp thời đại, còn việc xây mới hay nâng cấp chỉ là các phương tiện. Tôi hiểu rằng khi đặt vấn đề về sự lựa chọn giữa hai mô hình thì một giả định quan trọng là do nguồn lực có hạn nên chúng ta chỉ có thể làm tốt một việc, chứ không thể thực hiện nhiều phương án cùng một lúc.
Tuy nhiên, tôi xin đặt vấn đề ngược lại: có thật nguồn lực của chúng ta thiếu thốn đến mức không thể vừa xây mới một số trường ĐH có chất lượng vừa cải thiện các trường hiện có hay không? Xét về mặt tài chính, nếu như chỉ trông chờ vào ngân sách giáo dục của quốc gia thì đúng là chúng ta thiếu thốn.
Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn rộng hơn, coi nguồn lực tài chính bao gồm cả những nguồn có thể huy động từ bên ngoài thì sự thể lại không như vậy. Vốn ODA là một ví dụ.
Tôi tin rằng các nhà tài trợ sẽ luôn sẵn sàng cho ViệtNamvay để thực hiện các dự án cải cách giáo dục ĐH, nhất là khi họ biết rằng vốn ODA được giao cho các nhà giáo tâm huyết và những nhà quản lý có trách nhiệm. Rồi nguồn tài chính do người dân hiện nay đang đóng góp (tự nguyện hoặc không tự nguyện) cho việc học hành của con em họ chắc chắn là không nhỏ.
Tôi chỉ xin nói thêm về lý do tại sao tôi tin rằng việc xây mới trường ĐH ĐCQT cần được tiến hành song song với việc nâng cấp các trường hiện tại. Trường ĐH mới, nếu được thành lập, cũng sẽ chỉ là một bộ phận trong hệ sinh thái giáo dục ĐH của ViệtNam, và theo nghĩa ấy nó không thể tồn tại một cách biệt lập đối với các trường ĐH khác. Có khác chăng chỉ ở chỗ trường ĐH mới là biểu hiện của một biến thể mới trong hệ sinh thái giáo dục ViệtNamvốn đang rất cần được đa dạng hóa.
Trường ĐH mới này nếu thành công sẽ vừa đóng vai trò là một hình mẫu về mô hình quản trị, tổ chức và đào tạo hiện đại, vừa đóng vai trò là một nhân tố cạnh tranh lành mạnh đối với các trường ĐH hiện có. Kinh nghiệm phát triển nền ĐH của các nước phát triển cho thấy cạnh tranh (chứ không phải độc quyền) đem lại sức sống, sức sáng tạo và đổi mới cho các trường ĐH.
Tôi muốn nhắc đến chiến lược phát triển của hai ĐHQG. Khi thành lập, hai ĐHQG đã được xác định mục tiêu đến năm 2010 đạt đến trình độ tiên tiến trong khu vực. Nay đã chuẩn bị bước sang năm 2006, hai ĐHQG của ta đang ở đâu? Tôi nghĩ đến 2010, hai ĐHQG chưa thể đạt mục tiêu đó.
Trước đây tôi nghiêng về phương án xây dựng từ một trường ĐH đã có. Nhưng sau khi nhìn thực tế ở hai ĐHQG, tôi thiên về phương án thành lập một trường ĐH mới. Tuy nhiên, để đi đến phương án cụ thể cuối cùng không thể không nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng. Vì không chỉ cần nghiên cứu xem nên xây trường mới hay nâng cấp từ một trường sẵn có mà còn phải tính toán xem nên đào tạo những ngành nào, qui mô ra sao, đối tượng nào vào học... Nếu làm ào ào sẽ hỏng việc lớn.
Theo tôi, vấn đề quan trọng nhất đảm bảo cho sự thành công của việc đầu tư xây dựng một trường ĐH ĐCQT là phải có được đội ngũ nhân lực ĐCQT. Chứ thật ra nguồn lực tài chính đầu tư dù đòi hỏi có lớn, tới 100 triệu USD như nhiều người đang ước tính, thì Nhà nước sẽ giải quyết được. Tiền không lo, khó nhất là con người!
GS Hoàng Tụy: Phải xây dựng mới một trường ĐH “hoa tiêu”
Xây dựng hoàn toàn mới nghĩa là không phải ghép chung lại một số ĐH đã có sẵn (theo kinh nghiệm không thành công như đã làm cho tới nay). Cần xây dựng mới theo mô hình các ĐH nghiên cứu của Hoa Kỳ, chú trọng chất lượng hơn qui mô, không vội vàng nhưng khẩn trương, khi mở ngành nào cần chú ý ngay chuẩn mực và kinh nghiệm quốc tế để đảm bảo chất lượng cao ngay từ đầu.
Lúc đầu, trường ĐH này không nhất thiết đủ hết mọi ngành và qui mô có thể hạn chế trong số mấy trăm SV, nhưng phải được xây dựng theo đúng các chuẩn mực quốc tế về mọi mặt: cơ sở vật chất thiết bị, điều kiện ăn ở, học tập của SV, phương pháp, nội dung chương trình, trình độ giảng viên (lúc đầu một số ngành có thể mời giảng viên nước ngoài hoặc Việt kiều), đầu vào SV...
ĐH mới cần phải có được qui chế pháp nhân độc lập, không phụ thuộc Bộ GD-ĐT và được bảo đảm những điều kiện hoạt động như một doanh nghiệp công vô vị lợi, có quyền tự chủ về tài chính, chuyên môn khoa học, và nhân sự (trừ giám đốc và chủ tịch hội đồng quản trị do Thủ tướng cử, theo một qui trình lựa chọn dân chủ, công khai và có hiệu quả).
Trường phải có những điều kiện để bảo đảm môi trường làm việc thuận lợi, tạo cơ hội và điều kiện tốt nhất có thể được cho những nhà khoa học trẻ giỏi trong nước phát huy hết tài năng, đồng thời thu hút các nhà khoa học giỏi người Việt ở nước ngoài về nước làm việc, làm bàn đạp thực thi chính sách qui tụ và sử dụng nhân tài đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Dĩ nhiên xây dựng mới hoàn toàn cũng có những khó khăn nhất định, nhưng nếu sợ khó thì thà đừng làm còn hơn lặp lại kinh nghiệm cũ đã thất bại. Trong điều kiện giáo dục Việt Nam hiện nay, chỉ thay đổi từ từ, “kế thừa” những kinh nghiệm cũ để đi lên dần dần, không mở hướng đột phá mới, là “cách tốt nhất” để tụt hậu. Nói thế không có nghĩa là cứ phải xáo trộn lung tung mới tiến bộ được. Giải pháp xây mới trường ĐH ĐCQT chính là một cách tiến nhanh mà không gây xáo trộn nhiều.
Có người nghĩ ĐH của ta dù sao cũng có một số thành tựu, không nên “phủ định” hết các thành tựu ấy, mà nên xuất phát từ hiện trạng để nâng cấp dần các ĐH của ta lên tầm quốc tế. Đương nhiên, việc này cần làm, song kinh nghiệm cho thấy chỉ đi con đường ấy để có một ĐH ĐCQT phải mất rất nhiều thời gian, công sức, vì phải vượt qua một sức quán tính lớn và rất nhiều lực cản mà không hi vọng có thể khắc phục nhanh.
Cách đây mười năm, khi Chính phủ có ý định thành lập ĐHQG Hà Nội, chúng tôi cũng đã từng đề nghị nên lập mới hoàn toàn. Chính vì không lập mới mà chỉ gộp nhiều trường cũ lại nên sau mười năm xây dựng ĐHQG vẫn cách xa những ĐH tầm cỡ trong khu vực. Trong lúc đó áp lực cạnh tranh với các nước trong khu vực không cho phép chúng ta chờ đợi lâu hơn nữa.
Nguồn: tuoitre.com.ViệtNam3/7/2006