Những vấn đề lịch sử về Nguyễn Trung Trực
Cuối thế kỷ XVIII, ông cùng người em trai là Nguyễn Văn Chong vào lập nghiệp tại hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông, thôn Bình Nhựt, tổng Bình Cách, huyện Thuận An, phủ Tân Bình, trấn Phiên An (triều Gia Long) (3). Do xuất thân làm nghề đi biển nên vào đây gia đình ông cũng làm nghề chài lưới, lâu ngày hình thành tên gọi “xóm Nghề”. Hiện nay, ngay trong phần đất hương hỏa của hậu duệ Nguyễn Trung Trực mà nhiều người cho rằng đó là biến âm của “ông Thăng”, tức Nguyễn Trung Thăng (hay Nguyễn Văn Phụng) là cha của Nguyễn Trung Trực.
Theo ông Nguyễn An Thọ (sinh năm 1940, cháu 4 đời của Nguyễn Trung Trực) hiện cư ngụ tại xóm Nghề thì sau Nguyễn Trung Trực 2 - 3 thế hệ vẫn còn con cháu làm nghề lái rổi như: Nguyễn Văn Ký, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Văn Chỉnh, Đào Văn Hiệu, Nguyễn Văn Mên, Nguyễn Văn Đồng… Do xuất thân từ quê võ Bình Định, lại làm nghề lái rổi xuôi ngược trên sông nước Nam bộ vốn thường bị bối (trộm cướp đường sông) nên gia đình Nguyễn Trung Trực vốn có truyền thống võ nghệ. Chính điều này đã sớm hun đúc nên tính cách anh hùng của ông.
Nguyễn Trung Trực hi sinh cách đây chỉ 141 năm nhưng việc xác định ngày mất của ông vẫn không thống nhất.
Về ngày Dương lịch, hầu hết các tài liệu đều ghi là 27 - 10 - 1868. Cá biệt chỉ có Vương Hồng Sển trong bài Chung quanh vấn đề viết soạn tiểu sử Nguyễn Trung Trựccũng như của các nhân vật lịch sử khác (Tập san Sử địasố 12, Sài Gòn, 1968, tr 135) ghi là 27 - 9 - 1868. Riêng cuốn Tìm hiểu Kiên Giang(Dương Tấn Phát cb, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang xb, 1986, tr 75) cũng ghi 27 - 9 - 1868, nhưng trang 116 lại ghi là 27 - 10 - 1868,
Việc ghi nhận Nguyễn Trung Trực hi sinh ngày 27 - 9 - 1868 rõ ràng là không chính xác vì có rất nhiều tài liệu của Pháp đều ghi là ngày 27 - 10 - 1868.
Về ngày Âm lịch, có một số tài liệu ghi là 12 - 9 năm Mậu Thìn (4), nhưng các tài liệu khác lại ghi là 28 - 8 năm Mậu Thìn (5). Tuy nhiên, theo bảng đối chiếu ngày, tháng, năm Âm lịch với ngày, tháng, năm Dương lịch của Lê Thước trong cuốn Niên biểu Việt Nam(Vụ Bảo tồn Bảo tàng, Nxb Khoa học Xã hội, 1984, tr 93) thì chỉ có ngày 12 - 9 năm Mậu Thìn mới ứng với ngày 27 - 10 - 1868. Dù vậy, cho đến nay phần lớn các nơi đều cúng giỗ Nguyễn Trung Trực vào ngày 28 – 8 Âm lịch, cho nên vấn đề này cần phải được nghiên cứu thêm.
Do thực dân Pháp cấm đoán nên hoạt dộng thờ cúng và tưởng niệm người anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực lúc đầu chỉ diễn ra lén lút và không chính thức. Rất nhiều tài liệu cho rằng, khi Nguyễn Trung Trực bị hành hình, vua Tự Đức vô cùng thương tiếc, đích thân làm bài thơ truy điệu Nguyễn Trung Trực và sắc phong ông là Thượng đẳng linh thần. Ghi nhận đó không hề có cơ sở. Về bài thơ vừa nói thì Đông Hồ trong bài Cải chính một điều lầm tài liệu về Nguyễn Trung Trực(tập san Sử địa số 12) đã khẳng định đó là do Trương Gia Mô sáng tác. Còn về chuyện sắc phong thì hiện nay không hề có sắc thái Nguyễn Trung Trực (6) và trên tạp chí Xưa & Naysố 10 - 1998, Nguyễn Nghị có bài Nguyễn Trung Trực qua một số tư liệu của Phápđã dẫn tài liệu từ Cơ mật viện vi trích tư sự đề ngày 6 - 2 (Âm lịch) năm Tự Đức thứ 24 (1872) ghi lại lời Dụ của Tự Đức rằng: “Cứu xét rõ nguyên ủy, sự trạng của hai tên này, (Hồ Huân Nghiệp và Nguyễn Trung Trực) xuất thân như thế nào, đã từng làm quan hay chưa, theo ai làm việc gì, chết ngày nào…”. Điều này chứng tỏ 4 năm sau khi Nguyễn Trung Trực bị hành hình thì Tự Đức mới biết.
Nhánh hậu duệ Nguyễn Trung Trực tại xóm Nghề không thể làm lễ giỗ ông công khai mà phải thờ và giỗ lén lút tại chùa Sùng Đức (gần Chợ Lớn) do người cháu đời thứ 3 là ông Nguyễn Văn Cậy (tức sư Thiện Nghiêm) đang trụ trì tại đây tổ chức. Ngoài ra, ông Nguyễn An Khương (còn gọi là Mã Ngọc Ba) là cháu đời thứ 5 từ thập niên 1990 cũng tổ chức lễ giỗ Nguyễn Trung Trực tại nhà riêng vào ngày 12 - 9 Âm lịch hàng năm ở thị trấn Tân Thạnh, tỉnh Long An.
Riêng tại xóm Nghề, tuy không tổ chức lẽ giỗ Nguyễn Trung Trực nhưng hàng năm vào ngày 10 - 3 Âm lịch đều có tổ chức cúng để kỉ niệm ngày ông ra đi đánh Pháp với lời nguyền nếu không quét sạch giặc Pháp thì không trở về. Hàng năm lễ cúng này được tổ chức ngay tại nơi nhà cũ củ Nguyễn Trung Trực, nay là nhà ông Nguyễn Văn Bảy (cháu đời thứ 5). Lễ cúng này có nghi thức thả bè xuống sông kèm theo gạo muối để tưởng nhớ ngày ông lên đường giết giặc cứu nước.
Có một chi tiết đặc biệt là dù lễ cúng Nguyễn Trung Trực diễn ra ở đâu và khi nào thì lễ vật ở bàn thờ chính vẫn là đồ chay cùng với hoa quả, trà rượu. Các món mặn như heo, gà… chỉ dùng để cúng binh gia ở bên ngoài. Tại đình Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, trong và sau giỗ 3 - 5 ngày còn có tổ chức phục vụ cơm chay cho bá tánh thập phương. Việc cúng chay mang đậm tính Phật giáo này có thể là do Nguyễn Trung Trực có gia nhập đạo Bửu Sơn Kì Hương. Ngay từ những ngày đầu mới kéo quân về miền Tây, ông đã sớm tiếp xúc và gia nhập đạo Bửu Sơn Kì Hương, đồng thời lại là đồng chí thân thiết của Đức Cố quản Trần Văn Thành, một đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An.
Riêng đi về di vật của Nguyễn Trung Trực, theo người cháu 4 đời là Nguyễn An Thọ (thường xuyên ở chùa Sùng Đức trước 1975) thì, sau khi Nguyễn Trung Trực hi sinh, nghĩa quân có giao cho bà Nguyễn Thị Đạt (bà Tư Đạt) là chị ruột của Nguyễn Trung Trực (Năm Lịch) áo mão cùng chiếc ấn của ông (7). Thế rồi bà Nguyễn Thị Đạt giao lại cho con là ông Đào Văn Tế, ông Đào Văn Tế lại giao cho con là Đào Văn Hiệu.
Đến cuối năm 1945, Pháp trở lại xâm lược nước ta với thủ đoạn càng tàn bạo hơn, ông Đào Văn Hiệu sợ liên lụy nên đốt hết áo mão, còn chiếc ấn Nguyễn Trung Trực thì giao lại cho người cháu 3 đời của Nguyễn Trung Trực là ông Nguyễn Văn Chỉnh (Tám Còn).
Cũng cuối năm 1945, Đức Huỳnh giáo chủ thành lập bộ đội Nguyễn Trung Trực để chống Pháp. Năm 1946, ông Nguyễn Văn Chỉnh giữ chức Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến xã Bình Nhựt. Khi bộ đội Nguyễn Trung Trực từ miền Tây kéo lên Sài Gòn, ông Nguyễn Văn Chỉnh còn mang chiếc ấn Nguyễn Trung Trực ra đóng dấu lên lá cờ của cánh quân này rồi ông rút vô bưng kháng chiến.
Năm 1947, ông Nguyễn Văn Chỉnh đi tu ở chùa Hòa Hưng (Sài Gòn), giao ấn Nguyễn Trung Trực lại cho ông Nguyễn Văn Cậy. Ông Nguyễn Văn Cậy giữ và thờ chiếc ấn của Nguyễn Trung Trực ngay tại trong liêu của mình tại chùa Sùng Đức. Năm 1964, ông Cậy mất, đệ tử ông là Huỳnh Đức thay thế làm trụ trì chùa, vẫn giữ việc thờ và cúng giỗ Nguyễn Trung Trực.
Đến năm 1965, chùa Sùng Đức được trùng tu, sau đó thì phát hiện chiếc ấn của Nguyễn Trung Trực đã bị mất. Đến đây, di vật thiêng liêng của Nguyễn Trung Trực coi như không còn gì.
So với Kiên Giang thì hoạt động tưởng niệm Nguyễn Trung Trực trên đất Long An có phần yếu hơn. Mãi đến năm 1989, người ta mới dựng bia ghi danh nhỏ ở tại xóm Nghề (8) và bia lưu niệm nhỏ vàm Nhựt Tảo. Năm 1998, khu du lịch sinh thái Nguyễn Trung Trực bắt đầu được xây dựng tại xóm Nghề, đến nay vẫn chưa hoàn thành. Năm 2003, khu du lịch này xây dựng Đền tưởng niệm anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực trên gò đất nhân tạo trong khuôn viên khu du lịch và tổ chức lễ giỗ với qui mô nhỏ vào ngày 28 – 8 âm lịch hàng năm.
Từ năm 2008, UBND xã Thạch Đức bắt đầu tổ chức lễ giỗ Nguyễn Trung Trực tại bia ghi danh Nguyễn Trung Trực thuộc xóm Nghề, cũng vào ngayh 28 - 8 Âm lịch. Tuy là lễ giỗ lần đầu với qui mô lớn nhưng cũng thu hút khoảng 500 người đến lễ bái. Ngoài phần lễ giỗ ra còn có hội biểu diễn võ thuật, múa lân, múa rồng và đờn ca tài tử với những nghệ sĩ của quê hương Long An để ca ngợi đất Long An và chiến công Nhựt Tảo. Hiện nay UBND huyện Bến Lức đang có kế hoạch mở rộng khu di tích xóm Nghề đến 2 ha.
Riêng tại vàm Nhựt Tảo, từ năm 2001, UBND tỉnh Long An cho xây dựng khu lưu niệm chiến thắng Nhựt Tảo với qui mô 4,5 ha, dự kiến sẽ khánh thành vào 22 - 11 - 2009.
Nguyễn Trung Trực là hình ảnh tiêu biểu của phong trào chống Pháp giai đoạn đầu nên mặc dù bị thực dân Pháp ra sức cấm đoán, ông vẫn được kín đáo thờ cúng tại hàng chục ngôi đình ở hầu khắp các tỉnh miền Tây Nam bộ như: Long An, An Giang, Cần Thơ, Kiên Giang, Cà Mau…
Đặc biệt, từ một anh hùng dân tộc với danh hiệu Thượng đẳng Linh thần (do nhân dân tôn xưng), Nguyễn Trung Trực đã sớm trở thành đối tượng tôn thờ của đạo Bửu Sơn Kì Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và sau này là Phật giáo Hòa Hảo với danh hiệu Quan Thượng đẳng Đại thần.
Chú thích:
1. Cho đến nay, hầu hết các tài liệu đều viết rằng xóm Nghề (nay) thuộc xã Bình Đức là sai.
2. Cho đến nay, hầu hết các tài liệu đều ghi xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát là không chính xác so với thực tế.
3. Sau đây là lịch trình hành chính của xóm Nghề:
- Đầu triều Minh Mạng: thuộc thôn Bình Nhựt, tổng Bình Cách Thượng, huyện Thuận An, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định.
- Năm Minh Mạng thứ 18: đổi thuộc Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, phủ Tân An, tỉnh Gia Định.
- Từ 5 - 1 - 1867: gọi là làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, hạt tham biện Tân An.
- Từ 1 - 1 - 1900: thuộc làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, tỉnh Tân An.
- Ngày 22 - 2 - 1926: đổi thuộc làng Bình Nhựt, tổng An Ninh Hạ huyện Cửu An, tỉnh Tân An.
- Thập niên 1930: thuộc làng Bình Nhựt, tổng An Ninh Hạ, quận Bến Lức, tỉnh Tây An.
- Sau 1956: thuộc ấp 5, xã Bình Nhựt, tổng An Ninh Hạ, quận Bến Lức, tỉnh Long An.
- Sau 30 - 4 - 1975: thuộc ấp 5, xã Nhựt Chánh (sáp nhập hai xã Bình Nhựt và Bình Chánh), huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
- Đầu năm 1976: thuộc ấp 1, xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
- Ngày 11 - 3 - 1977: thuộc ấp 1, xã Bình Đức, huyện Bến Thủy (sáp nhập lai huyện Bến Lức và Thủ Thừa), tỉnh Long An.
- Ngày 14 - 1 - 1983: lại tách huyện Bến Thủ thành huyện Bến Lức và huyện Thủ Thừa, đồng thời chia xã Bình Đức thành hai xã mới là xã Bình Đức và xã Thạnh Đức, Xóm Nghề thuộc ấp 1, xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
(Tổng hợp từ nhiều nguồn mà chủ yếu là Nguyễn Đình Tư, Từ điển địa danh hành chính Nam bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, 2008).
4. Chẳng hạn: Phù Lang Trương Bá Phát, Bdd, tr 25; theo bản tông chi của nhánh hậu duệ Nguyễn Trung Trực ở xóm Nghề (xã Thạnh Đức) và ngày giỗ tại chùa Sùng Đức (trước 1975 là số 136 đường Lục Tỉnh, nay là số 688 Hồng Bàng, P.1, Q. 11. TP. HCM), ngày giỗ tại nhà ông Mã Ngọc Ba tại thị trấn Tân Thạnh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.
5. Chẳng hạn: Phạm Văn Sơn, Nguyễn Trung Trực - một Kinh Kha của miền Nam, Tập san Sử địasố 12, tr.74; Nguyễn Văn Khoa, Sdd, tr 38; ngày giỗ Nguyễn Trung Trực của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo; ngày giỗ Nguyễn Trung Trực tại các đình ở Rạch Giá…
6. Tại đình thần Long Phú, nay thuộc thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức vốn có sắc phong Thành hoàng bổn cảnh vào năm Tự Đức thứ 5 (1852). Đến những năm sau 1975, vì chứng kiến đình thần ở xã Bình Đức bên cạnh dẹp bỏ (vì có sắc của Bảo Đại phong cho một người lính Việt chết do có công cứu một sĩ quan Pháp) nên Ban Hội hương sợ, bèn sẵn có chữ “Trực” trong danh hiệu ghi trong sắc thần là “Quảng hậu Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng chỉ thần”, sửa thành ra sắc phong Nguyễn Trung Trực, mặc dù niên đại ghi trong tờ sắc trước cả khi Pháp sang xâm lược nước ta.
7. Sở dĩ nghĩa quân giao di vật cho bà Nguyễn Thị Đạt mà không giao cho anh trai ông (Nguyễn Văn Hòa) là vì Nguyễn Trung Trực với bà Nguyễn Thị Đạt là chị em cùng cha cùng mẹ, so với ông Nguyễn Văn Hòa là anh cùng cha khác mẹ.
8. Bia ghi danh này có dẫn hai câu thơ:
“Lửa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa,
Kiếm trắng Kiên Giang khốc (sic) quỷ thần”
Gây nhiều tranh cãi nên đến năm 2001 phải phá bỏ làm lại bia khác, sửa thành:
“Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa,
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỉ thần”.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Bảo vệ Di tích Đình Nguyễn Trung Trực,Nguyễn Trung Trực, Sở Văn hóa Thông tin Kiên Giang xb, 2004.
2. Cao Tự Thanh - Đoàn Lê Giang,Tác phẩm Nguyễn Thông , Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Long An xb, 1984.
3. Dương Tấn Phát cb,Tìm hiểu Kiên Giang, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang xb, 1986.
4. Đặng Việt Thủy cb,Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực , Nxb Quân đội nhân dân, 2008.
5. Đào Duy Anh,Hán Việt từ điển , nxb Văn hóa Thông tin, 2006.
6. Đào Văn Hội,Tân An ngày xưa , Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb, Sài Gòn, 1972.
7. Đông Hồ,Cải chính một điểm lầm tài liệu về Nguyễn Trung Trực , tập san Sử địa số 12 (10 - 12 - 1968).
8. Giang Minh Đoán, Nguyễn Trung Trực anh hùng kháng chiến chống Pháp , Nxb TP. HCM, 1991.
9. Huỳnh Tịnh Paulus Của,Đại Nam quốc âm tự vị, imprimerie REY, CURIOL & Cie, Sài Gòn, tập 1: 1895, tập 2: 1896.
10. Lê Thọ Xuân,Xin cung hiến một ít tư liệu về cụ Nguyễn Trung Trực, tập san Sử địa số 12.