Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 26/07/2006 13:55 (GMT+7)

Những tìm tòi và suy ngẫm của Trần Quốc Vượng về văn hoá Việt Nam

1. Tôi rất tâm đắc với cái đầu đề sách Văn hóa Việt Nam: Tìm tòi và suy ngẫm (Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, in lần đầu năm 2000) của Trần Quốc Vượng. Có thể nói, con đường Trần Quốc Vượng đến với văn hóa Việt Nam là một hành trình gian khổ nhưng đầy lạc thú của sự tìm tòi và suy ngẫm. Sở dĩ tôi cứ nhấn mạnh đến điều này là vì, trong hoàn cảnh học thuật hiện nay, tìm tòi đã hiếm, suy ngẫm thì lại càng hiếm hơn! Đa số các công trình chỉ là sự trình bày lại tư liệu của người đi trước. Mà phần lớn lại là những trình bày không có chủ kiến, không có ý đồ khoa học nên khó thoát khỏi cái gọi là sự xào xáo. Các công trình, vì thế, cứ na ná nhau như những người lính bận đồng phục chỉ tiện cho việc điểm danh, báo cáo. Trần Quốc Vượng thì khác. Khác ở cách làm, cách nhìn, cách nghĩ. Và vì thế, khác ở thư phẩm.


2. Cuốn sách gần một nghìn trang khổ lớn tập hợp những bài viết ở những thời kỳ khác nhau, vì những mục đích khác nhau, in ở những tờ báo và tạp chí khác nhau. Có lẽ thế nên nó có vẻ tản mạn, xô bồ, dù cho người biên tập đã cố sắp xếp nó vào những cái khuôn (khổ) như sau: 1. Những vấn đề chung, 2. Diễn trình văn hóa, 3. Văn hóa dân gian, 4. Nghệ thuật, 5. Ứng xử, 6. Danh nhân. Nhưng sự liên kết giữa những cái khuôn đó với nhau và giữa các bài trong cùng một khuôn chỉ là sự liên kết mang tính đề tài, tức sự liên kết bề ngoài, nhân tạo. Đọc Trần Quốc Vượng, nếu chỉ dừng lại ở cái địa hình dương này thì thấy ông “cũng thường thôi”, nên phải qua đó mà tìm được cái địa hình âm, tức những mạch chìm, những liên hệ nội tại, nằm sâu dưới những bên trên ngổn ngang gò đống. Trần Quốc Vượng vừa là “người của công chúng”, vừa là người của giới élite. Lùn mà cao là thế!


3. Tư liệu với mọi nhà khoa học là thứ quan trọng đầu tiên (chứ không chỉ tiền đâu!). Riêng trong nhân văn học thì càng quan trọng hơn, bởi đây là mảnh đất màu mỡ cho các suy diễn tùy tiện. Nhưng tư liệu mới đâu có dễ kiếm, bởi người đi trước vừa thông minh hơn ta, vừa “có chữ” hơn ta, lại vừa nhiều thuận lợi hơn ta nên đã thu lượm hết cả rồi. Kẻ hậu bối, nếu không muốn sau voi hít bã mía thì phải đọc lại tư liệu, tức làm mới những tư liệu cũ. Cách làm mới thứ nhất là giải thích lại tư liệu để tìm ra ý nghĩa mới. Cách làm mới thứ hai là bày biện những tư liệu cũ đó ở trong một sơ đồ nghiên cứu mới, một mô hình mới để nó bật ra những ý nghĩa mới. Trong Văn hóa Việt Nam : tìm tòi và suy ngẫm, tôi nghĩ, Trần Quốc Vượng, ngoài việc kiếm tìm tư liệu mới, đã làm mới tư liệu cũ bằng cả hai cách này.


4. Ví dụ 1: Tên đất Cổ Loa. Lĩnh Nam chích quái viết “Thành này trải rộng nghìn trượng, quanh co như hình ốc nên gọi Loa thành”. Thế là từ đó tên Cổ Loa gắn với truyền thuyết Rùa vàng đi vào tình cảm dân gian để trở thành đương nhiên. Nhà sử học Đào Duy Anh bác bỏ thuyết Cổ Loa thành là thành Loa cổ và cho rằng cổ ở đây là biến âm của từ Việt kẻ gắn với Loa (con ốc, từ Hán), Kẻ Loa. Đây cũng là một đương nhiên khác, bởi cụ Đào là một bậc thầy và lập luận của cụ rất có căn cứ. Nhưng Trần Quốc Vượng đã không chấp nhận những đương nhiên này, ông tìm tòi một hướng lý giải khác. Biết được tên nôm của Cổ Loa là Chạ Chủ hay Kẻ Chủ, bằng ngữ âm học lịch sử ông phục nguyên chữ chủ là k’lủ, vốn là nguyên hình từ gốc của các từ Khả Lũ, Kim Lũ, Cổ Loa. ở đây người ta dùng hai âm tiết Hán để phiên âm tên nôm cổ, âm tiết thứ hai mô phỏng trung thành cái vận mẫu làm gốc cho tên nôm hiện đại, còn âm tiết thứ nhất thường chỉ bó hẹp trong phụ âm đầu. Có điều về âm hưởng của từ Loa dạng cũ là lwo hay cổ hơn là lwu trong sự biến âm của từ Hán Việt Loa đã làm cho nó khác khá nhiều so với nguyên hình, nên không dễ liên tưởng.


5. Ví dụ 2: Vua Lê Thánh Tông. Cũng những tư liệu ấy, cũng cuộc đời và công nghiệp ấy, dưới con mắt của các sử thần Nho gia chính thống thì ông được ca ngợi là đấng minh quân, văn võ song toàn. Còn các sử gia mác xít với quan niệm phân kỳ: phát sinh, phát triển và suy tàn thì coi thời đại Lê Thánh Tông là đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam với nhiều thành tựu tốt đẹp gắn với cá nhân nhà vua. Các nhận định này cũng đã trở thành một thứ đương nhiên, miễn bàn hoặc không có gì phải bàn nữa. Nhưng Trần Quốc Vượng vẫn bàn và bàn được bởi lẽ ông biết đặt cùng những tư liệu ấy vào một hệ quy chiếu khác, cái nhìn dân gian và nhân văn, để nó bật lên những ý nghĩa khác, mang tính chất giải chính thống/thức hóa như: võ công (của Lê Thánh Tông) không phải để chống xâm lược như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung; văn trị: khởi xướng thứ văn học cung đình và lối văn bóng bảy, đục gọt từng câu, ngợi ca sáo rỗng; đức sáng: rất hiếu sát và ruồng bỏ những người có tài và vi phạm quy củ như Trạng Lường Lương Thế Vinh; ý thức hệ: độc tôn Nho, bài Phật, Lão và dân gian…


6. Không chỉ biết làm mới tư liệu cũ, Trần Quốc Vượng còn tự mình phát hiện ra nhiều tư liệu mới cho mình và cho các thế hệ khoa học sau ông. Trước hết là trong lĩnh vực khảo cổ học và sử học là những chuyên ngành “được Nhà nước phân công” và ông phục vụ tận tụy suốt đời. Sau đó là dân gian học là thứ được dân gian dạy dỗ và trao truyền. Đây là lĩnh vực, theo tôi, ông say mê và có nhiều đóng góp hơn cả. Và, vì thế, nó cũng ảnh hưởng nhiều, thậm chí rất nhiều đến nhân cách khoa học và tư cách con người của ông. Đó là sự kết hợp bác học và dân gian như một đường hướng lớn trong học thuật, một sự hòa quang đồng trần trong cuộc sống. Danh hiệu “giáo sư bụi”, từ cách nhìn này, theo tôi, là một sự vinh dự cho/của Trần Quốc Vượng. Cuối cùng, văn hóa học Việt Nam - lĩnh vực mà ông cố công xây đắp - đã thâu tóm được những sở trường, những lịch lãm của ông ở cả ba chân đế trên: khảo cổ học, sử học và dân gian học. Đọc Văn hóa Việt Nam : tìm tòi và suy ngẫm, đâu đâu người ta cũng thấy lấp lánh tư liệu mới và, quan trọng hơn, những phương pháp mới như là nguyên nhân (và kết quả) của những tư liệu mới này.


7. Ferdinand de Saussure có nói một câu thoạt nghe có vẻ nghịch lý: phương pháp đẻ ra đối tượng. Từ lâu, tôi đã chứng minh phê bình văn học kiểu mới, quả thực, là con đẻ của các phương pháp phê bình mới. Sự thuận lý hóa các nghịch lý kia lại càng đúng với văn hóa học. Trước đây, văn hóa học quả là không có đối tượng cho/của nó. Ngay cả Từ Chi cũng bảo: nói là nói thế cho vui thôi chứ làm gì có cái gọi là văn hóa học, chính văn hóa cũng chỉ là một bước bước quá ra từ một lĩnh vực nghiên cứu cụ thể nào đó, như dân tộc học chẳng hạn. Nhưng, theo tôi, chính cái bước quá ấy, sự siêu thăng từ những lĩnh vực cụ thể ấy, lại chính là đối tượng của văn hóa học. Tuy nhiên, để có được đối tượng ấy thì trước hết phải áp dụng những phương pháp thích hợp: Đó là cách tiếp cận hệ thống và liên ngành. Trần Quốc Vượng, theo tôi, đã sử dụng khá thành thạo hai phương pháp này. Và, vì thế, khái niệm văn hóa học ở ông không còn là một danh từ rỗng nghĩa nữa, mà đã có một nội dung cụ thể, riêng biệt.


8. Trước xin nói về phương pháp hệ thống. Phải coi văn hóa là một hệ thống bao gồm những yếu tố đồng loại và khác loại quy định lẫn nhau và chịu sự quy định của toàn bộ hệ thống. Và giá trị của từng yếu tố trong hệ thống là do quan hệ của nó với các yếu tố khác và với hệ thống mang lại. Cuối cùng, giá trị của hệ thống bao giờ cũng lớn hơn giá trị của các yếu tố cộng lại. Chỉ khi áp dụng phương pháp hệ thống thì mới dễ nhìn ra cái toàn bộ, cái tổng thể. Có lẽ vì thế mà Trần Quốc Vượng thích và hay dùng cái tên tiếp cận tổng thể. Hoặc giả thuật ngữ này ở ông được gợi ý từ Marcel Mauss? Có điều, người dùng phương pháp hệ thống ngoài việc thấm nhuần lý thuyết đã đành, cần phải là người có tri thức toàn diện và có khả năng tư duy trừu tượng. Nếu không, sẽ đẻ ra những khái quát non, những khái quát phiến diện. Tôi nghĩ, những khái quát vừa độ chín của Trần Quốc Vượng về các hằng số của văn hóa Việt Nam, về môi trường sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn Việt Nam, về các mô hình văn hóa Việt Nam là thú vị và nhiều gợi mở. Và điều này hẳn không nhiều thì ít là kết quả của phương pháp tiếp cận hệ thống của ông.


9. Bản thân văn hóa đã đòi hỏi việc nghiên cứu nó phải là tiếp cận liên ngành, vì văn hóa tuy không phải là một cái gì đó cụ thể nhưng lại có mặt ở tất cả những cái cụ thể. Hơn nữa, phương pháp hệ thống nghiên cứu các hiện tượng văn hóa không chỉ như một thực thể, mà chủ yếu là như một quan hệ. Chính quan hệ của nó với các hiện tượng khác làm nảy sinh ra nghĩa, ý nghĩa, giá trị. Bởi thế, nếu không nghiên cứu liên ngành là không xong. Trần Quốc Vượng là người bác học quảng vấn, đi nhiều trải nghiệm lắm, nên việc tiếp cận liên ngành với ông là một cái gì đó hết sức tự nhiên, như cá bơi trong nước vậy. Ông nói “Sắc thái đặc thù của ngôn ngữ - tộc người và văn hóa Việt Nam là cái chất giao thoa, tiếp xúc, đan xen. Mọi nghiên cứu văn hóa học ở nơi này (tức ở Việt Nam - ĐLT) phải là nghiên cứu liên văn hóa (intercultural studies)”. Bởi thế, nghiên cứu mỗi một sự kiện văn hóa dù lớn nhỏ thế nào ông cũng sử dụng toàn bộ tri thức về địa học, sử học, khảo cổ học, tộc người học, ngữ âm học lịch sử, dân gian học…y như bóng đá tổng lực. Người chưa quen hoặc chưa hiểu phương pháp này dễ có cảm giác như Trần Quốc Vượng hay lan man, con cà con kê, hoặc giết gà dùng dao mổ trâu là vì vậy. Nhưng rõ ràng, tiếp cận liên ngành đã mang lại cho Trần Quốc Vượng vị thế hàng đầu trong đội ngũ các nhà văn hóa học Việt Nam .


10. Nếu các phương pháp hệ thống nghiêng về đồng đại thì cách tiếp cận liên ngành lại bao quát cả phần lịch đại. Hai phương pháp này ở Trần Quốc Vượng bổ sung cho nhau và hòa quyện với nhau đã mang lại cho những công trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam của ông nói chung và tác phẩm Văn hóa Việt Nam: tìm tòi và suy ngẫm nói riêng nhiều thành công, nhiều thành tựu xuất sắc. Có thể nói, nếu ở người này người nọ có những đóng góp hoặc ở phương pháp hoặc chỉ ở những lóe sáng, thì Trần Quốc Vượng toàn diện hơn, cả ở bình diện hệ thống, cả ở bình diện chi tiết. Vì thế, ảnh hưởng của ông, theo tôi, là lớn và lâu dài


Nguồn: vanhocnghethuat.org.vn

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Đảng ủy LHHVN tổ chức Lễ trao huy hiệu Đảng và Hội nghị chuyên đề "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một"
Ngày 3/6, tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Lễ trao tặng huy hiệu Đảng đợt 19/5/2025 và Hội nghị chuyên đề Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một".