Những tiến bộ khoa học y học tại Việt Nam
Trong khi đó, ở Việt Nam, nhiều thành tựu, tiến bộ y học như bệnh viện Việt Đức ghép tạng từ người cho chết não, Việt Xô có máy chụp kỹ thuật số, nội soi ở Viện Nhi, ghép gan, tim, thân ở nhiều bệnh viện khác nhau hay thụ thai ngoài ống nghiệm...đã giúp cứu sống nhiều bệnh trạng nan y mà mạng sống của họ là ngàn cân treo trên sợi tóc… có khoảng từ 7 – 10 kỹ thuật khoa học tốt đã được đưa vào áp dụng tại nhiều bệnh viện khác nhau trong cả nước. Dưới đây xin chỉ nêu những kỹ thuật tiêu biểu đã mang lại những lợi ích cho người bệnh chinh phục được nhiều lĩnh vực khó, khiến không ít chuyên gia y học thế giới phải ngưỡng mộ, nhiều dịch vụ y tế chất lượng cao ngang tầm khu vực và quốc tế. Tỉ lệ ghép tạng trên thế giới có nguồn hiến từ người chết não cho chiếm tới 90%, thì tại Việt Nam ta nguồn hiến tương tự lại quá hiếm hoi, không thấm tháp gì so với nhu cầu được ghép tạng của người bệnh suy tim, suy gan, suy thận nặng... Cụ thể như anh Thanh bị ung thư gan, gan xơ, khối u có kích thước 49 x 30 mm đã khiến cả gia đình anh như chết lặng. Quá đột ngột và với tâm lý của những người trong gia đình thì ung thư gan gần như cái chết đang đến rất gần. Họ chỉ biết khóc, cầu trời khấn phật có một tia hy vọng le lói. Nằm điều trị tại bệnh viện Việt Đức, gia đình anh Thanh luôn thấp thỏm, chờ đợi ngày được ghép gan. Ngày 22 tháng 5 năm 2010, kíp mổ của Bệnh viện Việt Đức đã thực hiện thành công ca ghép gan từ người chết não. Bệnh nhân là anh Trần Ngọc Thanh, 46 tuổi (Khối 1, TT Mường Ảnh, Điện Biên). “Đây là ca ghép gan từ người chết não đầu tiên, vì vậy trước khi tiến hành ca mổ, các thầy thuốc đã phân tích kỹ lưỡng với phương châm chậm mà chắc, nên đã hoàn thành ca mổ ngoài cả sự mong đợi”, PGS.TS Trịnh Hùng Sơn người trong kíp mổ phấn khởi nói. Đây là lần đầu tiên, các bác sỹ bệnh viện Việt - Đức đã thực hiện thành công ca ghép gan của bệnh nhân Thanh và 2 ca ghép thận khác và đã đưa về phòng điều trị bình thường. Song nhân đây cũng phải nói người chết não phải là người tai nạn có chấn thương sọ não, hoặc bị tai biến về mạch máu não. Người chết não phải được hội đồng kiểm tra, xem xét, về mặt lâm sàng là mất hết các phản xạ sống. Chỉ khi hội đồng kết luận bệnh nhân chết rồi và được phép của gia đình thì mới tiến hành ghép. Và đặc biệt, nguyên tắc người cho không biết thông tin về người nhận và người nhận cũng không biết nguồn từ người cho là ai.Còn ghép tạng thận cũng lấy thận từ người cho chết não. Ca phẫu thuật ghép thận từ người cho chết não được thực hiện sáng 29 tháng 11 đến nay, sức khỏe của bệnh nhân rất ổn định, các chỉ số trở về gần như bình thường. Tại Việt Nam đến nay đã có 7 ca chết não hiến tạng. Tại bệnh viện Quân Y 103 và bệnh viện Trung ương Huế mới chỉ thực hiện ghép tim. Riêng tại bệnh viện Việt Đức đã có 5 trường hợp hiến tạng và từ 5 người chết não hiến tạng này, bệnh viện đã ghép tim cho một trường hợp, 2 người được ghép gan, 10 người được ghép thận, 2 người được ghép van tim. Từ năm 1996 đến nay đã 77 ca ghép thận được thực hiện tại bệnh viện Việt Đức và tất cả các ca này đều thành công, vì thế hiện có cả bệnh nhân Mỹ, Nhật muốn sang Việt Nam ghép tạng.
Về lĩnh vực ứng dụng của cắt lớp vi tính đa dãy đầu dò (MDCT) với hai đầu bóng (DSCT) trong chẩn đoán bệnh mạch vành cũng đã được thực hiện ở nước ta. Ứng dụng của Cắt lớp vi tính đa dãy đầu dò (MDCT) với hai đầu bóng (DSCT) trong chẩn đoán bệnh mạch vành. Chụp mạch vành với máy 64 lớp cắt : ảnh hưởng của rung nhĩ. Chụp Cắt lớp vi tinh đo thể tích gan, kỹ thuật và ứng dụng trong cắt gan. Mổ trường hợp phình xoang Valsalva dạng 3 túi, có chụp MSCT 64 slices. Hoặc trường hợp thực hiện cộng hưởng từ của Sarcome cơ vân tiền liệt tuyến. Đặc biệt còn phát hiện dị dạng động tĩnh mạch não thông qua nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và hình ảnh chụp Cắt lớp vi tính.Trong việc sử dụng chụp công hưởng từ tại Bệnh viện Chợ Rẫy để phát hiện đặc điểm của lao màng não trên Cộng hưởng từ, hay hình ảnh Cộng hưởng từ của u não hố sau trước và sau điều trị bằng Gamma knife tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược Huế…
![]() |
Về lĩnh vực siêu âm tại thành phố Hồ Chí Minh (Medic) đã siêu âm tim qua thực quản chẩn đoán các đường dò trong tim. Cũng thành phố Hồ Chí Minh Bệnh viện An Bình đã giải quyết một trường hợp dị dạng bẩm sinh hệ niệu. Vai trò của Siêu âm nội soi trong chẩn đoán sỏi ống mật chủ được thực hiện tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn nhận thấy giá trị của siêu âm trong chẩn đoán thủng tạng rỗng. Tại Bệnh viện trung ương Huế đã biết sử dụng Siêu âm 4D khá hiệu quả trong công tác chữa trị nhiều bệnh… Cụ thể là bước đầu ứng dụng kỹ thuật siêu âm đàn hồi mô tại Bệnh viện Trung ương Huế.Đối với lĩnh vực nội soi cũng đã đạt trình độ kỹ thuật ngang tầm với thế giới cụ thể là Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới chuẩn bị triển khai kỹ thuật nội soi mật tụy ngược dòng – ERCP, họ đã triển khai thành công một số kỹ thuật mới trong lĩnh vực nội soi tiêu hóa can thiệp. Nội soi mật tụy ngược dòng là một kỹ thuật chuyên biệt dùng để quan sát hình ảnh X-Quang của đường mật và đường tụy qua đường nội soi tiêu hóa. Qua đó giúp chẩn đoán chính xác và điều trị các bệnh lý: Sỏi đường mật, nhiễm trùng đường mật do sỏi, hẹp-tắc nghẽn đường mật, giun chui ống mật, viêm tụy cấp do sỏi kẹt nhú Vater, hẹp cơ Oddi... Theo kế hoạch phát triển chuyên môn kỹ thuật của Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới năm 2011, khoa Thăm dò chức năng sẽ triển khai các kỹ thuật nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP: Endoscopic Retrograde Cholangio Pancreatography) với sự giúp đỡ của Bệnh viện Trung ương Huế cũng theo Đề án 1816 của Bộ Y tế.Đặc biệt mới đây Việt Nam đã gây “sốc” cho y học thế giới về lĩnh vực nội soi cụ thể là tại Hội nghị Ngoại nhi tổ chức tại Italy, các bác sĩ của Bệnh viện Nhi Trung ương đã gây “sốc” cho các nhà ngoại khoa trên thế giới khi công bố thực hiện thành công phương pháp mổ nội soi cho những bệnh nhi sơ sinh bị thoát vị cơ hoành đó là cháu Đào Xuân Trường (10 ngày tuổi) sau phẫu thuật nội soi thoát vị cơ hoành.Khi bé Đào Xuân Trường cất tiếng khóc chào đời, các bác sĩ đã lo lắng cho sự sống của cháu bé vì cháu bị thoát vị cơ hoành. Ngay lập tức, cháu được chuyển về Bệnh viện Nhi. Giám đốc bệnh viện Nguyễn Thanh Liêm đã trực tiếp xem xét tình trạng bệnh của bệnh nhi và quyết định mổ nội soi để xử lý thoát vị cơ hoành.Theo thống kê của Viện Nhi, hằng năm có khoảng 20 – 30 trẻ sơ sinh nhập viện trong tình trạng thoát vị cơ hoành. Nhiều trẻ được cứu sống, nhưng cũng có không ít trẻ do đến viện quá muộn, tình trạng suy hô hấp nặng nên không cứu chữa được. TS Nguyễn Thanh Liêm - Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương - cho biết: “Chúng tôi quyết định đưa phẫu thuật nội soi thoát vị cơ hoành vào bệnh nhi sơ sinh là cố gắng rất lớn. Vì đứa trẻ mới sinh còn rất yếu, nếu bị thoát vị cơ hoành, nguy cơ tử vong rất cao, nhưng vẫn có thể cứu được. Chỉ có phương pháp phẫu thuật nội soi mới có cơ hội cứu sống trẻ. Quyết định áp dụng phẫu thuật nội soi xử lý thoát vị cơ hoành cho trẻ sơ sinh chính bởi lý do đó”.Từ năm 2000, Bệnh viện đã ứng dụng nội soi phẫu thuật bệnh lý thoát vị cơ hoành trên bệnh nhân nhi và trở thành nước thứ ba trên thế giới thực hiện thành công phương pháp này. Nhưng trong thời gian gần đây, Bệnh viện Nhi Trung ương đã tiến thêm một bước nữa là mổ nội soi thoát vị cơ hoành trên bệnh nhi sơ sinh. Thành công này đã được giới y học thế giới ghi nhận, Việt Nam là nước đầu tiên áp dụng kỹ thuật trên ở trẻ sơ sinh.Gần đây việc chỉ đạo phẫu thuật trực tuyến trên màn hình đã đạt được nhiều kết quả đáng trân trọng, cứu sống kịp thời những người bệnh tại các tuyến tỉnh, huyện nếu chuyển tiếp lên các bệnh đầu ngành ở Trung ương người bệnh sẽ tử vong vì không kịp thời can thiệp xử trí sớm.
Mới đây, phương pháp phòng, chống dịch SARS đơn giản, hiệu quả của Việt Nam đã được Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá cao, nhiều bạn bè quốc tế học tập, ứng dụng. Thế hệ thầy thuốc hiện nay với sự chỉ dẫn của các bậc thầy đã thực hiện được nhiều kỹ thuật tiên tiến, ngang tầm thế giới như ghép gan, thận, nội soi, thụ tinh trong ống nghiệm...”. Nhiều thành tựu đáng tự hào Với sự thay đổi lớn về môi trường sống cũng như thói quen sinh hoạt đã dẫn đến tình hình bệnh ung thư gia tăng nhanh chóng trên toàn cầu. Chúng ta đều biết, trong thế kỷ XX, điều trị ung thư bằng kỹ thuật hóa – xạ trị, phẫu thuật được áp dụng rộng rãi, và đến nay nó vẫn là biện pháp trị ung thư cơ bản nhất tại Việt Nam . Các kỹ thuật này cũng đã đóng một vai trò rất quan trọng, đó là giúp cho tỷ lệ thành công của các ca điều trị tăng lên, kéo dài sự sống cho bệnh nhân.









