Những phát hiện mới tại Hoàng thành và giả thuyết về động đất lịch sử tại Hà Nội
1. Hoàng thành Thăng Long, những dấu vết cổ xưa
Hoàng thành, trái tim của Thăng Long, kinh đô cổ xưa của người Việt, vốn gắn liền với những hình ảnh về một miền đất “đô hội trọng yếu để bốn phương sum họp” , “muôn vật cực kỳ giàu thịnh đông vui”, như trong Chiếu Thiên đô của vua Lý Thái Tổ đã nói. Việc khai quật Hoàng thành gần đây đã rọi một luồng ánh sáng vào những điều bí ẩn từ lâu chưa được giải đáp về cuộc sống của kinh thành Thăng Long, một trong những kinh đô lâu đời nhất trên thế giới, thủ đô của một dân tộc đã phát triển rất sớm và trường tồn mạnh mẽ qua nhiều thời kỳ thăng trầm của lịch sử. Đặc biệt, những hiện vật còn sót lại trong lòng đất tại khu vực khai quật là những bằng chứng rất quan trọng, giúp chúng ta ngược dòng thời gian, tìm về quá khứ và làng sáng tỏ ít nhiều về những sự kiện đã sảy ra hàng nghìn năm trước đây.
Bài viết này sẽ đề cập đến khía cạnh về các yếu tố rủi ro đã ảnh hưởng đến đời sống của kinh thành Thăng Long, với hy vọng góp phần làm sáng tỏ một trong những sự kiện có thể đã xảy ra tại kinh thành cách đây gần mười thế kỷ. Khởi đầu của cuộc bàn luận sẽ bắt đầu từ những di vật còn sót lại trên khu vực khai quật khảo cổ Hoàng thành. Trên khu đất rộng vài trăm mét vuông, ở độ sâu khoảng 3,5-4 mét, những di vật được phát hiện bao gồm nhiều thể loại khác nhau, từ những đồ vật lớn còn khá nguyên vẹn như giếng nước, các mảnh gạch, ngói bằng đất nung có chạm trổ hình rồng, những phiến đá đỡ chân cột khá to và nặng, đến những tàn tích đã vỡ vụn như mảnh sành, mảnh cột, tro tàn và những nắm xương khô...
![]() |
Bằng việc ghép nối các hình ảnh của hiện thực và vận dụng một chút trí tưởng tượng, chúng tôi muốn chia xẻ những nhận xét và suy đoán của mình tập trung vào ba vấn đề sau:
1) Các đám tro tàn còn sót lại trên hiện trường khu khảo cổlà những bằng chứng về những trận hoả hoạn đã xảy ra trên địa phận Hoàng thành cổ xưa. Đây có thể là bằng chứng của một trong các hiểm hoạ đã từng xảy ra tại kinh thành Thăng Long thời Lý - Trần. Trong số các hiểm hoạ, có thể đưa ra ba giả thiết sau: hoả hoạn do địch hoạ (ngoại xâm), hoả hoạn do sinh hoạt và hoả hoạn do động đất.
2) Vết tích xương (người, xúc vật) còn sót lại hiện trường khu khảo cổcũng có những điểm đáng chú ý. Việc các di vật này được phát hiện không nằm tập trung, mà lại rải rác ở nhiều vị trí trên khu Hoàng thành cổ cho thấy mối hiểm hoạ gây ra cho các nạn nhân là một loại hiểm hoạ bất thình lình, không được báo trước. Nó cũng cho thấy không có sự sắp xếp, thu dọn lại hiện trường sau khi xảy ra thảm hoạ.
3) Sự phá huỷ và dịch chuyển của các phiến đá:Những vết nứt trên mặt những phiến đá lớn cho thấy chúng đã bị những ngoại lực rất mạnh, vượt quá khả năng sức mạnh của con người tác động lên. Thậm chí, tại khu B, một trong những phiến đá không những bị vỡ ra thành hai phần, mà phần bị vỡ còn lật úp lên và nằm đề lên hai phần kia của phiến đá này. Đây rất có thể là bằng chứng của những rung động rất mạnh từ bên trong lòng đất, phát ra từ một trận động đất mạnh mà mức độ tàn phá đối với kinh thành Thăng Long không hề thua kém những cuộc ngoại xâm của quân Nguyên và quân Chiêm thành lúc bấy giờ?
2. Giả thuyết về một hiểm hoạ trong quá khứ: động đất lịch sử
Xuất phát từ những mô tả và lập luận đã nêu ở trên, có thể đưa ra giả thuyết về một (hoặc một vài) trận động đất mạnh đã từng xảy ra tại kinh đô Thăng Long. Chấn động của trận động đất này có thể đã gây ra nỗi kinh hoàng và vô số tổn thất về người và của cho cộng đồng dân cư của kinh thành Thăng Long thời bấy giờ. Dấu ấn của những thiệt hại do động đất lịch sử gây ra (hoả hoạn, sập nhà cửa, cung điện, chết người và gia súc...) vẫn còn lưu lại đến ngày nay và được phản ánh trong những di vật được phát hiện tại khu vực khai quật khảo cổ Hoàng thành.
3. Tư liệu và bằng chứng
Sự tàn phá kinh thành Thăng Long
Nhìn chung, cơ sở của giả thuyết về động đất lịch sử tại kinh thành Thăng Long là khá mong manh, nếu chỉ dựa vào những nhận xét vàquan sát trên khu vực khai quật khảo cổ Hoàng thành. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV, kinh thành Thăng Long (trong đó có Hoàng thành) đã nhiều lần bị tàn phá. Những tư liệu trong mục kế tiếp được trích dẫn từ cuốn Lịch sử Thủ đô Hà Nội (NXB Sử học, năm 1960).
Kinh thành Thăng Long được xây dựng từ đầu thế kỷ XI, nhưng tới cuối thời Lý, khoảng đầu thế kỷ XIII, bọn phong kiến khai sáng nhà Trần đã nhiều lần thiêu đốt kinh thành, khiến cuối năm 1214, vua nhà Lý sau khi chạy nạn trở về kinh, cung điện bị tàn phá hết, phải làm nhà tranh ở bên sông Tô Lịch để ở. Sau khi nhà Trần lên cầm quyền, kinh thành được sửa sang xây dựng lại. Tới cuối thế kỷ XIII, quân Nguyên mấy lần sang xâm lấn cướp phá kinh thành, khiến đầu năm 1288, khi chiến thắng trở về, Hoàng thành đã bị đốt phá hết, nhà vua Trần phải ăn ngủ ở hành lang, nơi ở cũ của lính thị vệ. Sau đó, nhà Trần lại đôn đốc nhân dân xây dựng lại kinh thành. Tới cuối thể kỷ XIV, trong vòng mấy năm, từ 1371 đến 1378, Chiêm thành đã bốn lần đem quân chiếm đoạt, đốt phá kinh thành Thăng Long. Trong tình trạng tan hoang ấy, vào năm 1397, Hồ Quý Ly, với mưu đồ cướp ngôi nhà Trần, đã rời đô đi nơi khác, phá vỡ nốt những cung điện còn sót lại ở Thăng Long để lấy gạch ngói, bắt dân chuyên chở vào dựng kinh đô mới ở Thanh Hoá. Kinh thành Thăng Long chỉ trở lại phồn thịnh dưới thời vua Lê Lợi, sau khi quân xâm lược nhà Minh đã bị đánh bại.
Động đất đã ghi nhận được tại khu vực Hà Nội
Một trong những luận điểm quan trọng cho phép đưa ra giả thuyết về động đất lịch sử là thông tin về những trận động đất mạnh đã xảy ra tại kinh đô Thăng Long vẫn còn lưu lại đến ngày nay. Trong số các động đất lịch sử đã xảy ra trên địa bàn Thăng Long cổ và lân cận, có ba trận động đất (có lẽ là mạnh nhất vào thời kỳ đó), được ghi nhận là đã gây ra kích động mạnh ở kinh đô vào các năm 1277, 1278, 1285.
Các trận động đất lịch sử 1277, 1278 và 1285 được ghi lại trong sử sách của các triều vua trị vì ở các thời kỳ này. Trận thứ nhất làm đất nứt 7 trượng, trận thứ hai là một chuỗi ba kích động mạnh xảy ra trong vòng một ngày, còn trận thứ ba đã làm bia đá trong chùa Báo Thiên (xây năm 1057 ở địa điểm Nhà thờ lớn hiện nay) gay làm đôi, và làm núi Cao sơn bị lở. Có thể đánh giá cấp độ mạnh của các trận động đất này tương đương với cấp 7, và cấp 7-8. Mặc dù sự đánh giá này mang tính chất định tính, một điều không thể phủ nhận được là cấp độ mạnh ở chấn tiêu của các trận động đất này có thể còn cao hơn nữa nếu Hà Nội nằm trong vùng chấn tâm của chúng.
Cần lưu ý rằng, về mặt địa chấn kiến tạo, kinh đô Thăng Long nằm trong một khu vực có độ nguy hiểm động đất khá cao. Theo bản đồ phân vùng động đất do các nhà địa chấn Việt Nam thành lập, Hà Nội ngày nay (tức Thăng Long xưa) nằm trong vùng động đất cấp 8. Theo các tài liệu quan trắc bằng máy của mạng lưới trạm địa chấn Việt Nam và quốc tế, các tài liệu điều tra thực địa và các tài liệu lịch sử, tính đến năm 1991, đã có 152 trận động đất được ghi nhận trên lãnh thổ Hà Nội, trong đó đáng kể nhất là các trận động đất năm 1958 ở Vĩnh Phúc và động đất năm 1961 ở Tân Yên, Bắc Giang.
Trận động đất Vĩnh Phúc năm 1958 xảy ra ở Yên Lạc, chỉ cách Hà Nội 60km về phía Tây Bắc. Các trạm địa chấn ở phía Nam Trung Quốc đã ghi được động đất này. Căn cứ vào các tài liệu điều tra thực địa, có thể đánh giá cấp độ mạnh ở chấn tâm động đất này là Io = 6, độ sâu chấn tiêu h = 20 và magnitude m = 5,3 độ Ríchter.
Trận động đất ngày 12/6/1961 xảy ra ở Tân Yên (Bắc Giang), cách Hà Nội hơn 60 km về phía Đông Bắc. Đã có 105 trạm địa chấn quốc tế ghi nhận được trận động đất này. Các tài liệu cho thấy động đất này có cấp độ mạnh ở chấn tâm là Io = 7, độ sâu chấn tiêu h = 28 km và magnitude m = 5,6 độ Ríchter.
4. Kết luận:
Những phát hiện mới tại khu vực khai quật khảo cổ Hoàng thành đã mở ra những cơ hội mới trong việc nghiên cứu lịch sử và đời sông của thủ đô Hà Nội thời kỳ cổ xưa. Những di vật còn sót lại cho thấy những bằng chứng về những tai hoạ đã tàn phá kinh thành Thăng Long thời kỳ Lý - Trần, trong đó giả thuyết về một trận động đất mạnh đã xảy ra tại kinh thành Thăng Long vào khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XI đến cuối thể kỷ XIV là hoàn toàn có cơ sở hiện thực.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là một giả thuyết. Việc chứng minh và xác minh tính đúng đắn của giả thuyết này là một trong những công việc rất quan trọng, cần phải được xúc tiến trong thời gian tới. Đây cũng sẽ là một công việc nghiêm túc, đòi hỏi thời gian và sự đóng góp trí tuệ của nhiều nhà khoa học, của các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, và quan trọng nhất là sự quan tâm và hỗ trợ xứng đáng của Nhà nước.
______________
Tài liệu tham khảo:
Trần Huy Liệu (Chủ biên), 1960. Lịch sử thủ đô Hà Nội. Nhà xuất bản Sử học, Viện sử học, 425 trang.
Nguyễn Hồng Phương, 2003. Nghiên cứu xác định độ rủi ro động đất cho thành phố Hà Nội. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ, Viện kỹ thuật xây dựng Hà Nội.
Nguồn: T/c Địa cầu, số 7, 3/2005.