Những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Thực trạng quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Báo cáo phát triển Việt Nam (VDR) năm 2011 với chủ đề Quản lý tài nguyên thiên nhiên vừa được Ngân hàng Thế giới công bố ngày 5/01/2011 cho thấy, phần lớn sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay dựa vào yếu tố khai thác mạnh mẽ các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hệ số sử dụng đất tăng mạnh, tài nguyên nước lãng phí, rừng tự nhiên bị khai thác lấy gỗ, trữ lượng cá cho hoạt động đánh bắt bị cạn kiệt và tài nguyên khoáng sản ngày càng bị khai thác nhiều hơn.
Hiện trạng khai thác sử dụng taifnguyeen khoáng sản với nhiều diễn biến phức tạp đã gây ra nhiều tác động bất lợi về môi trường trên diện rộng và ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội.
Theo ông Phạm Quang Tú, Phó Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển (CODE), từ năm 1996-2008, Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp 928 giấy phép hoạt động khoáng sản, nhưng chỉ từ tháng 10-2005 đến tháng 8-2008, UBND các tỉnh đã cấp 3.495 giấy phép khai thác khoáng sản, gấp vài lần số lượng cơ quan trung ương cấp trong vòng 12 năm. Hơn nữa, qua thanh tra, kiểm tra cho thấy, nhiều bất cập trong quản lý và khai thác tài nguyên đặc biệt là những sai phạm về cấp phép.
Theo cuộc điều tra kết thúc đầu năm 2010 của Thanh tra Chính phủ, kể từ tháng 1/2003 đến tháng 5/2009, tỉnh Nghệ An đã cấp 19 giấy phép khai thác tận thu khoảng sản sai qui định, cấp không đúng vào vị trí được bàn giao tận thu (tại 8 điểm mỏ đá trắng và 11 điểm mỏ thiếc). Có trường hợp cấp phép lớn hơn diện tích được bàn giao, cấp phép ra ngoài khu vực được bàn giao. Đã có 94 giấy phép khai thác khoáng sản khác được tỉnh Nghệ An cấp cho 89 đơn vị không có thẩm định thiết kế cơ sở; 57 giấy phép khác được cấp không đúng với quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng do tỉnh này xây dựng. Đáng chú ý hơn, thanh tra còn khẳng định lãnh đạo tỉnh nghệ An đã cấp 127 giấy phép khai thác khoáng sản cho 121 doanh nghiệp vào các khu vực chưa có quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản. Ở tỉnh Hà Giang hiện có 100 doanh nghiệp, đơn vị được phép khai thác, chế biến khoáng sản, 22 dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư nhưng thực tế đến nay mới chỉ có hơn mười mỏ đi vào hoạt động Có tới khoảng 20 doanh nghiệp được cấp phép quá 12 tháng vẫn chưa hoàn thiện các thủ tục để tiến hành khai thác mỏ (do năng lực yếu).
Thả lỏng việc cấp phép đã khiến nhiều nguồn tài nguyên rơi vào tình trạng cạn kiệt. Tại Hà Tĩnh, tình trạng khai thác cát trắng đã sắp hết. Các địa phương ven biển khác như Bình Định và các tỉnh miền Trung khác khai thác inmenit cũng đang rất bất cập, nếu không được điều chỉnh sớm sẽ khó tránh khỏi tình cảnh tương tự như với cát trắng Hà Tĩnh.
Ngoài ra tình trạng “chảy máu” tài nguyên cũng đang diễn biến phức tạp. Điển hình là nạn khai thác, vận chuyển xuất khẩu than trái phép diễn ra ở Quảng Ninh. Số quặng titan xuất lậu trong năm 2007 vào khoảng hơn 100.000 tấn, đã tăng gấp đôi vào năm 2008. Yên Bái cũng là địa bàn “nóng” về khai thác khoáng sản. Theo ông Lê Đình Đạo, Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Yên Bái, tinhrnayf có 107 đơn vị khai thác, chế biến khoáng sản, phần lớn ở diện quy mô nhỏ. Đó là chưa kể đến nạn khai thác khoáng sản không phép, khai thác tự do, nhất là đối với vàng sa khoáng, đá quý, chì, kẽm, titan… chưa thể ngăn chặn.
Điểm đáng chú ý là thị trường tiêu thụ quặng và khoáng sản của việt nam là Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Malaixia và các sản phẩm xuất sang hầu hết đều là sản phẩm thô. Trong khi đó, chỉ tính riêng năm 2009, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 8,5 tỷ USD hàng hóa có nguồn gốc từ khoáng sản, nhưng cũng nhập về khoảng 15,5 tỷ USD thiết bị, vật liệu có nguồn gốc từ khoáng sản.
Nguyên nhân thực trạng
Đánh giá việc quản lý và khai thác tài nguyên đất và khoáng sản trong những năm qua, ông Trần Đức Lượng, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ cũng cho rằng còn nhiều sơ hở, bất cập dẫn đến thực trạng sử dụng chưa hiệu quả các nguồn tài nguyên.
Qua thanh tra phát hiện 6 dạng sai phạm xảy ra ở tất cả các khâu của hoạt động khai thác khoáng sản. Từ ban hành văn bản, hoạt động cấp phép, hoạt động khai thác đến các vi phạm về quản lý môi trường, về chính sách bảo hộ quyền lợi của nhân dân địa phương nơi có khoáng sản được khai thác và các quy định trong quản lý xuất khẩu khoáng sản – ông Lê Tiến Chiến, Phó Vụ trưởng Vụ 1-Thanh tra Chính phủ, cho biết.
Qua thanh, kiểm tra cho thấy có tới 8/16 tỉnh, thành phố được kiểm tra vẫn còn các điểm khai thác trái phép. Trong khi đó, tại nhiều địa phương, hoạt động này diễn ra khá công khai và chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp xã không có giải pháp xử lý hiệu quả, quyết liệt.
Bên cạnh đó, công tác thanh tra chuyên ngành khoáng sản chưa thực sự hiệu quả cũng là một yếu tố khiến công tác quản lý nhà nước trong hoạt động khoáng sản không thể đạt kết quả như mong muốn. Nhiệm vụ của thanh tra chuyên ngành là kiểm tra việc chấp hành các quy định về nội dung giấy phép hoạt động khoáng sản; về bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản; về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhan được phép hoạt động khoáng sản; về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản.
Tuy nhiên, cho đến nay, các nhiệm vụ trên chưa được thực hiện một cách thường xuyên và không đi trước một bước. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu kiến thức về thanh tra khoáng sản, thiếu các quy định cụ thể đối với công tác thanh tra chuyên ngành khoáng sản. Hoạt động thanh tra, kiểm tra khoáng sản còn có sự chồng chéo do nhiều cơ quan thực hiện. Điều này làm cho tình trạng thất thoát lãng phí tài nguyên, mất an toàn lao động, gây ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản cũng như tình trạng khai thác, xuất khẩu khoáng sản trái phép vẫn chưa được khắc phục triệt để.
Những giải pháp chủ yếu
Theo báo cáo VDR năm 2011 của WB, không có gì sai nếu sử dụng tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng kinh tế. Nhưng để phát triển bền vững, cần phải đảm bảo rằng các tài nguyên được khai thác ở mức thích hợp và lợi nhuận thu được từ việc khai thác đó được đầu tư vào các hình thức vốn khác. Báo cáo cũng đã đưa ra những khuyến cáo nhằm đổi mới căn bản chương trình quản lý tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam , để vừa đạt được hiệu quả kinh tế cao vừa đạt được sự bền vững môi trường, cũng như sự công bằng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Thứ nhất, quản lý nhà nước cần ưu tiên vào các công việc tăng cường tính công khai, minh bạch trong các thị trường đất đai; cải tiến việc thu thập dữ liệu về nước nhằm thúc đẩy quản lý lưu vực hợp lý trong bối cảnh cạnh tranh sử dụng nước ngày càng tăng; thực thi các tiêu chuẩn dữ liệu nghiêm ngặt trong ngành lâm nghiệp để tạo điều kiện huy động các nguồn vốn quốc tế nhằm hỗ trợ hấp thu cacsbon, lâm nghiệp bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học; nâng cấp cơ sở dữ liệu nhằm xác định hiện trạng nghề cá và các mức đánh bắt hợp lý; công bố kết quả đánh giá tác động môi trường từ việc khai thác khoáng sản.
Thứ hai,hiện đại hóa quản lý địa chính nhằm giảm chi phí giao dịch, tăng hiệu quả tưới; tăng năng suất rừng trồng; cải cách cơ chế trợ cấp cho ngành đánh bắt cá để không khuyến khích khai thác quá mức các tài nguyên biển và tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn cho khu vực tư nhân theo đuổi các cơ hội trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản.
Thứ ba,cải thiện việc thực thi quy định môi trường để rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết và thực tiễn; gán các giá trị cho môi trường nếu thị trường không làm được điều này; mở rộng các quy chế đồng quản lý trong lâm nghiệp và quản lý tài nguyên biển và cơ chế chi trả cho các dịch vụ môi trường, đồng thời kết hợp vấn đề biến đổi khí hậu vào quá trình quy hoạch công. Các ưu tiên trước mắt về phương diện môi trường gồm có: Quy hoạch sử dụng đất để bảo vệ các sinh cảnh quan trọng; đẩy mạnh việc thực hiện các quy định nhằm chống ô nhiễm nước; tiếp tục phát triển các hệ thống chi trả cho dịch vụ bảo vệ và mở rộng rừng tại các vùng ven biển; mở rộng hệ thống Khu bảo tồn biển kết hợp với các hệ thống bảo tồn dựa vào cộng đồng và thực thi các quy định môi trường liên quan đến khai thác mỏ.
Thứ tư, liên quan tới sự công bằng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên, cần tập trung giải quyết hiệu quả và công bằng các khiếu nại trên thị trường đất đai; cải tiến có chọn lọc các dịch vụ nước cho người nghèo; mở rộng các thí điểm khả quan trong lĩnh vực quản lý lâm nghiệp cộng đồng cũng như tài nguyên biển; và đưa ra các quy định để cộng đồng được hưởng lợi trực tiếp từ khai thác khoáng sản tại các vùng lân cận.
Bên cạnh những khuyến cáo mang tính định hướng của WB, để quản lý tốt tài nguyên khoáng sản, các cơ quan chức năng cần có những biện pháp kịp thời và đồng bộ. Việc cần làm đầu tiên là phải sớm hoàn chỉnh và công bố quy hoạch khoáng sản trong giai đoạn mới một cách cụ thể rõ ràng. Đó là căn cứ hết sức quan trọng để các sở ngành có liên quan và các địa phương xây dựng các phương án, chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện. Đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định hồ sơ cấp phép. Việc cấp phép phải căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội của từng dự án gắn với yêu cầu bảo vệ môi trường, sinh thái, tránh việc cấp phép tràn lan như trước đây – là nguyên nhân của việc sang nhượng, mua bán mỏ trái phép.
Công tác thanh tra, kiểm tra cần phải làm mạnh hơn, thường xuyên hơn. Kiên quyết đình chỉ và xử lý nghiêm việc khai thác, vận chuyển, kinh doanh khoáng sản trái phép trên địa bàn. Cần xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu nếu để cho tình trạng khai thác, vận chuyển, mua bán khoáng sản mà không có biện pháp ngăn chặn xử lý triệt để ở trên địa bàn của mình.
Công tác quản lý tài nguyên khoáng sản có được tăng cường hay không là do đội ngũ cán bộ chuyên trách. Do vậy, các bộ, ngành có liên quan cũng như các địa phương phải chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp đội ngũ cán bộ hiện có một cách phù hợp nâng dần tính chủ động, hiệu quả và trách nhiệm của cán bộ trong lĩnh vực này./.








