Những đợt tử vong của tù nhân An Nam ở Guyan
Trong cả hai giai đoạn, dịch bệnh đã ảnh hưởng đến hoạt động của nhà lao rất lớn. Để loại bỏ các phần tử chống đối, dịch bệnh là phương tiện và là cai tù hiệu quả nhất. Để khai thác tài nguyên, dịch bệnh trở thành nhân tố tệ hại. Nó hủy hoại sinh mạng và sức khỏe tù nhân, tiềm năng lao động mà chính quyền Pháp đang cần.
Vì thế suốt một thời gian dài cần đến sức lao động tỳ nhân để khai thác tài nguyên, chính quyền Pháp phải thay đổi mọi chính sách và áp dụng mọi biện pháp để bảo vệ sức khỏe cho tù nhân, đồng nghĩa với bảo đảm sự cường thịnh cho nước Pháp.
Theo ông Henri Charrière, tác giả hồi ký “Người tỳ khổ sai Papillon” vào những năm 1930, mỗi năm ở nhà lao Guyan có 80% tù nhân bị chết vì dịch bệnh. Nhưng số tù nhân của nhà lao không giảm mà còn có khuynh hướng tăng lên do chính quyền Pháp đã bổ sung tù nhân liên tục. Hết đoàn tàu này đến đoàn tàu khác, mỗi chuyến từ 1.000 đến 2.000 tù nhân đổ lên vùng ma thiêng nước độc này. Các tòa án ở Pháp và các thuộc địa được khuyến cáo cần phải mạnh tay hơn nữa. Tù không đáng đi đày cũng cho vào danh sách đi đày. Sau đó, còn áp dụng luật Doublage, theo đó tù nhân mãn hạn không được về nước mà phải ở lại Guyan làm công nhân một thời gian bằng với thời gian thụ án. Tất cả mọi biện pháp đều nhằm cung cấp công nhân nô lệ cho Guyan.
Dịch bệnh là nguyên nhân chính cho mọi cái chết của tù nhân, với đủ loại bệnh nhiệt đới: sốt rét, sốt vàng da, lao, hủi, lỵ, viêm đường ruột… Nổi bật nhất là bệnh sốt vàng da. Bệnh này có nguồn gốc châu Phi do nô lệ da đen mang sang. Gặp khí hậu nhiệt đới ở Guyan, bệnh phát triển mạnh. Lúc ấy, không ai biết tác nhân gây ra bệnh. Đến cuối thế kỷ 20, các nhà khoa học mới khám phá ra tác nhân gây bệnh chính là nhóm Arbovirus ký sinh trong cơ thể ruồi vàng.
Dịch sốt vàng da không phân biệt sắc tộc màu da. Năm 1765, đã xảy ra một đợt chết người gây kinh động, hàng nghìn nông dân nghèo khổ ở nước Pháp bị chính phủ lừa phỉnh đi tìm vùng đất hứa, họ náo nức kéo sang Guyan định cư lập nghiệp. Chỉ một năm rưỡi sau, hàng nghìn người trong số họ đã bị bệnh sốt vàng da và một số dịch bệnh khác giết chết. Vài trăm người sống sót, hoảng loạn vượt biển ra quần đảo cách Cayenn 500 km. Ở đây, nhờ khí hậu gió biển trong lành, dịch bệnh đã bị chặn đứng lại. Họ đòi về nước, chính quyền không cho về và buộc phải ở lại quần đảo để sinh sống. Nhớ ơn quần đảo đã cứu họ, người định cư đặt tên đảo là Cứu Rỗi (Island of Salvation còn gọi là Iles de Salut).
Năm 1797, chính quyền Pháp bắt giữ 193 người trong nhóm đối lập Robespièrre đưa đày sang Guyan. Một năm sau, 11 người chịu không nổi khí hậu khắc nghiệt đã liều chết vượt ngục, 128 người chết vì dịch bệnh, chỉ còn 54 người sống sót.
Năm 1849, những người nô lệ da đen ở Guyan được giải phóng, chính quyền cho họ vào rừng Inini để lập những cộng đồng dân cư kiểu châu Phi để sinh sống. Thế nhưng, ngay những người da đen quen sống ở nơi khí hậu khắc nghiệt cũng không thể chịu đựng được khí hậu dịch bệnh của Nam Mỹ. Họ phải rời bỏ rừng Inini để ra vùng ven biển sinh sống.
Năm 1869, một trận dịch lớn xảy ra giết chết gần hết tù nhân và lính canh ở Guyan, chính quyền phải cho đóng cửa toàn bộ nhà lao ở đây. Thủ Khoa Huân lúc bấy giờ bị giam giữ ở Guyan đã được 5 năm, cũng được trả về Việt Nam và quản thúc (Thủ Khoa Huân về sau nổi lên chống Pháp ở Tiền Giang, bị chúng bắt và xử tử).
Năm 1931, sau chuyến hải trình hơn 20.000 km từ Côn Đảo đến Guyan, bằng tàu hơi nước Mertinière, trong số 525 tù nhân Việt Nam bị đi đày đã có 8 người chết vì bệnh.
Năm 1932, dân Âu châu thích mùi thơm của cây gỗ Hường, một loại đặc sản của Guyan. Công ty nước hoa Coty dùng dầu cây gỗ Hường sản xuất ra một loại dầu thơm bán rất chạy. Giá gỗ Hường tăng lên cao, chính quyền huy động 600 tù nhân An Nam ở nhà lao Inini đi vào rừng sâu để tìm gỗ Hương. Trong chiến dịch này, 70 tù nhân An Nam đã bỏ mạng vì dịch bệnh và ác thú.
Từ năm 1931 đến 1935, tù nhân An Nam được bổ sung liên tục cho nhà lao Inini, trong số họ đã có hơn 250 người chết do dịch bệnh.
Năm 1935, tù nhân An Nam ở nhà lao Inini được chuyển sang Crique Anguille xây dựng nhà lao mới giam tù nhân An Nam. Để đối phó với chiến tranh thế giới lần thứ II sắp xảy ra, chính quyền Guyan huy động hơn 3.000 tù nhân đủ sắc da ở các nhà lao làm con đường xuyên rừng Inini dài 300 km. Nhà lao Grique Anguille với 600 tù nhân được chia thành 12 nhóm, mỗi nhóm 50 người. Sáu nhóm bắt đầu từ bờ sông Sinnamary đến bờ sông Mana. Sáu nhóm bắt đầu làm từ Forrestière đến bờ sông Mana, cùng với hàng nghìn tù nhân da trắng, da đen từ các nhà lao trong khu vực. Theo kế hoạch, hai nhóm sẽ gặp nhau ở hai bờ sông Mana để bắc chiếc cầu nối liền con đường.
Tù nhân đi làm đường chỉ có dụng cụ thô sơ, ăn uống thiếu thốn, bệnh tật không có thuốc men nên trong 7 tháng mới làm được 7 – 8 km. Số tù nhân chết hơn 500 người, trong đó có hơn 300 tù nhân An Nam vì bị đối xử tệ bạc hơn tù da trắng.
Trên đây là những đợt tử vong lớn ở khối tù nhân An Nam, với tổng số 7.000 tù nhân bị đày đi Guyan, số mãn hạn và vượt ngục không quá 10%, có nghĩa là 6.000 tù nhân đã chết trong thời gian bị giam giữ.








