Những điểm cần lưu ý khi triển khai mô hình cộng đồng tham gia quản lý bảo vệ môi trưòng tại nông thôn Hải Dương
Quá trình triển khai mô hình giúp nâng cao nhận thức cho người dân về lợi ích của việc bảo vệ môi trường, đã hình thành được các tổ chức tự quản môi trường tại cộng đồng. Với sự hỗ trợ của chính quyền, các hoạt động của tổ chức này đã dần đi vào nền nếp, góp phần vào việc thực hiện xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường tại cộng đồng nông thôn. Đến nay mô hình đã được nhân rộng ra toàn tỉnh, gần 60% xã đã có hoạt động thu gom rác, giữ gìn vệ sinh môi trường tại địa phương mình.
Để giúp các địa phương tham khảo kinh nghiệm trong triển khai mô hình ''Cộng đồng tham gia quản lý, bảo vệ môi trường ở nông thôn'' (gọi tắt mô hình) chúng tôi xin trao đổi một số vấn đề sau:
Việc thành lập nhóm quản lý bảo vệ môi trường là nhiệm vụ rất quan trọng liên quan đến sự thành công của mô hình. Thông thường các giải pháp cho một vấn đề vượt quá năng lực của một người. Việc hình thành nhóm là cách thức hiệu quả để giải quyết vấn đề. Thế mạnh của cách thức tiếp cận này là tận dụng những kỹ năng và kinh nghiệm của nhiều người. Để thu hút được sự tham gia của người dân trong cộng đồng, trưởng nhóm phải là người có vai trò quan trọng trong cộng đồng; số lượng thành viên nhóm nên gọn nhẹ , từ 5-7 người có năng lực và khả năng vận động người dân, kinh tế gia đình khá và bản thân có sức khỏe, nhiệt tình với phong trào.
Trong quá trình triển khai tại 26 xã thực hiện mô hình (thuộc các huyện Cẩm Giàng, Kim Thành, Bình Giang, Kinh Môn, Thanh Miện, Ninh Giang, Tứ Kỳ) thì 100% xã đều triển khai thành lập được nhóm này, thường mỗi thôn có một nhóm và do trưởng thôn làm trưởng nhóm, tuy nhiên khi lựa chọn thành viên thì có tới gần 60% xã đưa vào nhóm quá đông người, lên tới 12- 15 người, mặt khác trình độ thành viên tham gia không đồng đều, khả năng truyền đạt hạn chế do vậy việc xây dựng kế hoạch, triển khai, vận động người dân gặp rất nhiều khó khăn, việc bàn bạc thống nhất một vấn đề có nhiều trường phái dẫn đến tình trạng ''ông chẳng, bà chuộc'', vấn đề không được giải quyết một cách thấu đáo.
Mặt khác, do trình độ hạn chế, hoạt động hội thảo nhóm không phát huy được trí tuệ tập thể nên việc xác định nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và thiết lập mục tiêu, chỉ tiêu, xây dựng kế hoạch bảo vệ môi trường tại cộng đồng của nhóm rất yếu, Qua thực hiện mô hình tại 26 thôn, có đến 50% số thôn không tự xây dựng được mục tiêu và chỉ tiêu mà phải có trợ lực của dự án và lãnh đạo UBND xã hỗ trợ. Nhiều giải pháp bảo vệ môi trường (BVMT) chưa hiệu quả và phù hợp những điều kiện thực tế tại địa phương. Các khía cạnh, như: tài chính, nguồn lực, công nghệ, thời gian,...thường không được xem xét kỹ lưỡng.
Đối với các tổ giải pháp trực tiếp thực hiện công tác vệ sinh môi trường hay tuyên truyền thì có đến 80% các tổ chưa được trả công phù hợp, có nhiều thôn chỉ trả cho người thu gom rác khoảng 25.000đ đến 30.000đ/ ngày thu gom, chỉ bằng 50% so với tiền công lao động giản đơn nhiều ngành nghề khác cùng thời điểm. Không những tiền công thấp, người thu gom rác còn chịu áp lực trước thái độ miệt thị, coi thường của không ít người dân nên dễ bị dao động, có 20% người đã xin thôi không đảm nhiệm công việc này.
Một vấn đề thường hay vấp phải trong quá trình xây dựng mô hình đó là việc thường bỏ qua việc điều tra, khảo sát những thông tin cần thiết về tình hình môi trường, cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế – xã hội của cộng đồng; các vấn đề về cấp nước, chất thải, điều kiện vệ sinh môi trường và các hoạt động sản xuất tại hộ gia đình để có thể xác định các nguồn gây ô nhiễm và các lĩnh vực cần tập trung. Chính vì vậy 50% các nhóm bảo vệ môi trường của các xã lựa chọn vấn đề ưu tiên giải quyết không trúng, chưa phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương.
Vấn đề quan trọng nhất trong quá trình thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường là cần tập trung vào việc tuyên truyền, giáo dục nhằm tạo ra nhận thức bảo vệ môi trường và nâng cao kỹ năng của những thành viên thực hiện giải pháp và người dân tại cộng đồng. Có nhiều hình thức tuyên truyền dễ thực hiện nhưng đem lại hiệu quả cao, như: tổ chức hội thi, giao lưu kiến thức bảo vệ môi trường hay đầu tư các panô quảng bá về hoạt động môi trường gắn ở trục đường thôn xóm; mở chuyên mục tuyên truyền về môi trường trên đài truyền thanh của xã ... Song song với hoạt động trên thì việc trực tiếp tuyên truyền vận động người dân thực hiện đúng các quy chế, quy ước BVMT cũng không kém phần quan trọng, nhưng trong thực tế các xã còn chưa thực coi trọng, chưa tích cực triển khai, nhất là chưa tranh thủ tuyên truyền, vận động những đối tượng thiếu thiện cảm đối với phong trào để họ tích cực tham gia. Tại các xã, do công tác tuyên truyền vận động chưa tốt dẫn đến việc đóng góp kinh phí cho hoạt động BVMT cũng hạn chế, xã thu cao nhất (xã Hiến Thành, huyện Kinh Môn và xã Cộng Hoà, huyện Kim Thành) cũng chỉ đạt 90% hộ dân tham gia đóng kinh phí, xã thu thấp nhất đạt có 55% hộ dân tham gia như xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng.... mức đóng góp kinh phí hầu như chỉ đủ một phần cho hoạt động thu gom rác, còn các hoạt động cho người gián tiếp tham gia phong trào thì hầu như không có.
Việc ủng hộ nhiệt tình của lãnh đạo xã cũng là yếu tố quan trọng để việc triển khai mô hình thành công tại cơ sở. Tại các địa phương có đội ngũ cán bộ xã đoàn kết thì công việc triển khai rất thuận lợi, nhiều xã đã cử 1 Phó chủ tịch UBND xã tham gia trực tiếp chỉ đạo phong trào nên việc chỉ đạo rất sát, việc hỗ trợ hoạt động thuận lợi, nhiều xã đã đưa các vấn đề vào chương trình hành động của đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội, kết hợp biện pháp xử lý hành chính tại địa phương như các xã: Cộng Hòa (Kim Thành), Hiến Thành (Kinh Môn)....đều đạt kết quả tốt, mô hình được duy trì ổn định, môi trường thôn xóm được cải thiện rõ rệt.
Để duy trì được hoạt động bảo vệ môi trường tại cộng đồng thì không thể không đề cập đến kinh phí tự đóng góp của ngưòi dân vì các nguồn kinh phí hỗ trợ của nhà nước, của tổ chức phi chính phủ cũng chỉ là vốn mồi, kích thích phong trào ban đầu, do vậy việc đóng góp đủ kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi trường của người dân thì đã coi như mức độ thành công của mô hình đạt 60%; Bên cạnh đó việc công khai minh bạch tài chính với dân cũng hết sức cần thiết. Hiện nay có một số xã trong tỉnh đã có phong trào BVMT, nhưng do việc thu chi không rõ ràng, người lao động được trả công quá thấp, có nơi còn mượn kinh phí sử dụng vào việc khác gây ra mất lòng tin của người dân dẫn đến phong trào tan vỡ.
Hoạt động bảo vệ môi trường ở khu vực nông nghiệp nông thôn Hải Dương trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay là cần thiết, song thật không đơn giản, không thể một sớm một chiều có thể làm thay đổi nhận thức của người nông dân được, do vậy việc kiên trì giáo dục, đào tạo lồng ghép với các hoạt động thực tiễn sản xuất gắn với bảo vệ môi trường, kết hợp biện pháp xử lý hành chính tại địa phương mới có thể là giải pháp phù hợp nhất cho việc duy trì và phát triển hoạt động này.








