Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 18/02/2008 15:20 (GMT+7)

Nhìn lại hoạt động khoa học ở Việt Nam qua các ấn phẩm khoa học quốc tế

Trước thành công của đội tuyển Olympic toán học Việt Nam, một quan chức đã phát biểu: Đất nước này không thiếu tiền để làm toán học nhưng các nhà toán học phải quyết tâm xây dựng ngành toán trở thành trụ cột trong tinh thần người Việt Nam . Các nhà toán học phải xây dựng chương trình phát triển toán quốc gia để trở thành cường quốc thế giới về toán học. Ước nguyện trở thành cường quốc thế giới về toán học là một tham vọng đáng được đặt ra, nhưng chúng ta cần phải xem xét ngành toán học Việt Nam đang ở vị trí nào trên thế giới. Và, vị trí đó cũng không thể chỉ đánh giá qua những tấm huy chương mà các em giành được trong những kỳ thi toán dành cho học trò.

Hai chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá khả năng và năng suất hoạt động khoa học của một quốc gia là số lượng bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có hệ thống bình duyệt, và số tác giả thuộc quốc gia đó đứng tên đầu (hay tác giả chính) của bài báo. Theo thống kê gần đây, trung bình mỗi năm các nhà toán học Việt Nam công bố khoảng 20-25 công trình trên các tạp chí khoa học quốc tế. Đây là một con số quá khiêm tốn nếu so sánh với một trường đại học trung bình ở nước ngoài (chứ chưa so sánh với một nước). Điều đáng nói là phần lớn các công trình toán học từ Việt Nam là những công trình toán thuần túy ở những lĩnh vực rất hẹp mà toán học thế giới ít quan tâm. Thật vậy, giáo sư Phạm Duy Hiển đã làm một phân tích về chỉ số trích dẫn (citation index), và kết quả cho thấy số lần trích dẫn các bài báo toán học từ Việt Nam tính trung bình chỉ 1 đến 2 lần (kể cả tác giả tự trích dẫn bài báo của mình!). Nói cách khác, phần lớn những nghiên cứu toán học ở nước ta có rất ít người sử dụng và chưa gây được tiếng vang trên trường quốc tế.

Mặc dù trên thế giới, toán học đã được ứng dụng một cách rộng rãi trong mọi hoạt động khoa học, đặc biệt là một thế kỷ qua, nhưng ở nước ta giới làm toán vẫn chưa thật sự “dấn thân” vào khoa học thực nghiệm. Có thể ghé qua trang web của Viện Toán học (www.math.ac.vn) và dạo qua một vòng các bài báo, công trình nghiên cứu của Viện, chúng ta có thể thấy phần lớn, nếu không nói là tất cả, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các vấn đề toán học thuần túy. Toán học ứng dụng của Việt Nam hầu như vắng bóng trên trường quốc tế. Xin lấy một ví dụ cụ thể: Ngành thống kê học đã phát triển rất mạnh và nhanh trên thế giới, nhưng ở nước ta thì hầu như chưa có ngành thống kê học. Hầu như bất cứ trường đại học nào trên thế giới cũng có bộ môn thống kê học, nhưng chưa có trường đại học nào ở nước ta có bộ môn này! Thành ra, trong khi giới toán học nước ta bàn những vấn đề toán học loại “trên mây”, thì những vấn đề thiết thực nhất lại không giải quyết được mà phải lệ thuộc vào các chuyên gia từ nước ngoài…! Trong khi nước ta có một viện toán học bề thế và tập trung nghiên cứu những vấn đề trừu tượng, thì những môn học thiết thực nhất và căn bản nhất về thống kê ứng dụng lại phải nhờ các chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy ngắn hạn!

Toán học là một lĩnh vực “mạnh” của khoa học Việt Nam mà còn như thế, vậy các ngành khoa học khác thì sao? Dựa vào số lượng bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí quốc tế, có thể nói tình hình NCKH ở nước ta vẫn còn quá kém. Trong khoảng 5 năm (tính từ 2002 đến 2006), các nhà khoa học Việt Nam đã công bố được 2.469 bài báo khoa học. Nói cách khác, tính trung bình mỗi năm các nhà khoa học nước ta chỉ công bố khoảng 494 bài báo, một con số rất khiêm tốn so với lực lượng nhà khoa học ở nước ta (theo thống kê là khoảng 21.000). So sánh số lượng bài báo khoa học tầm cỡ quốc tế của nước ta với các nước khác trong khu vực cho chúng ta một “bức tranh” khác. Trong cùng thời gian 2002 - 2006, Singapore là nước có số lượng bài báo khoa học cao nhất (với gần 28.000 bài trên các tạp chí quốc tế), kế đến là Thái Lan, Malaysia, và sau cùng là ba nước còn lại (Việt Nam, Indonesia, Philippines). Riêng Thái Lan công bố được 11.429 bài báo khoa học, gấp 4, 6 lần con số của Việt Nam . Malaysia cũng cao hơn nước ta khoảng 2,8 lần (xem biểu đồ phía trên).

Một điều đáng mừng là so với 5 năm trước 2002, số lượng bài báo khoa học của Việt Nam đã tăng khoảng 45%. Nhưng các nước trong khu vực(trừ Indonesia) cũng tăng, đặc biệt các nước như Thái Lan, Singaporevà Malaysia có tốc độ tăng nhanh hơn nước ta. Tuy nhiên, trong số 2.469 bài báo khoa học của Việt Nam, chỉ có 548 bài (hay khoảng22%) là do “nội lực” (tức là được thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam, do các nhà khoa học Việt Nam làm chủ), còn lại khoảng 78% là do hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài. Đáng chú ý hơn là con sốcông trình nội lực này không tăng so với hơn 10 năm trước. Nói cách khác, NCKH ở nước ta vẫn chủ yếu là do hợp tác với nước ngoài và nội lực của ta không tăng trong thời gian qua.

Phân tích theo từng ngành cho thấy, hơn 50% số bài báo khoa học từ Việt Nam thuộc các lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết và trừu tượng (phần lớn là toán học thuần túy, vật lý lý thuyết), còn các ngành khoa học ứng dụng chỉ chiếm khoảng 46%. Đặc biệt là số bài báo trong ngành y - sinh học chỉ chiếm khoảng 33% tổng số bài báo khoa học từ Việt Nam (các nước trong khu vực khá “mạnh” trong lĩnh vực khoa học ứng dụng và y học lâm sàng, nhưng các ngành khoa học lý thuyết gần như đứng cuối bảng xếp hạng!). Nói cách khác, hoạt động khoa học ở nước ta vẫn chủ yếu tập trung vào các vấn đề lý thuyết, mà ít có những nghiên cứu ứng dụng tầm cỡ quốc tế.

Tại sao số lượng ấn phẩm y học (và khoa học nói chung) từ Việt Nam còn quá khiêm tốn trên trường quốc tế? Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng theo tôi, vấn đề chủ yếu là văn hóa khoa học, đầu tư cho khoa học ứng dụng, và vấn đề tiếng Anh.

Thứ nhất, có thể nói không ngoa rằng chúng ta chưa có một văn hóa khoa học, bởi vì từ xưa, nước ta không có một truyền thống khảo cứu khoa học. Lịch sử Việt Nam cho thấy nước ta có nhiều anh hùng quân sự, nhà thơ, nhà sử học, nhưng rất ít nhà khoa học, kỹ sư hay nhà kinh tế. Hệ thống giáo dục của nước ta ngày xưa được mô phỏng theo hệ thống giáo dục của Trung Quốc, đòi hỏi học sinh phải tuân theo sách vở một cách máy móc, không khuyến khích sự tự do tìm tòi, thử nghiệm. Khi người Pháp vào Việt Nam, hệ thống giáo dục Trung Quốc được thay thế bằng hệ thống giáo dục Pháp, tuy những tri thức khoa học và kỹ thuật được đưa vào một cách có hệ thống hơn, nhưng phần lớn chỉ để phục vụ cho thực dân. Với cả một hệ thống giáo dục như vậy, học sinh phải học thuộc lòng sách giáo khoa nhằm cố thi đỗ trong các kỳ thi rất gắt gao. Cách giáo dục “độc thoại” và “thụ động” này làm cho học sinh nản lòng trong việc tìm hiểu, chất vấn những sự việc, hiện tượng xung quanh xảy ra như thế nào và tại sao. Hậu quả là nhiều thế hệ học sinh thụ động, kém tưởng tượng, không phát triển được kỹ năng thực hành, sáng tạo và tính chủ động, tự lập; không có cơ hội NCKH. Do đó, phần lớn những kiến thức về Việt Nam, dân tộc Việt Namvà tài nguyên Việt Namlại nằm trong tay các nhà khoa học ngoại quốc, thay vì trong tay các nhà khoa học Việt Nam . Ngay cả hiện nay, các trường đại học hàng đầu ở nước ta vẫn chỉ là những trung tâm huấn luyện và giảng dạy, chứ chưa thực sự là những trung tâm nghiên cứu như các nước trong vùng. Các tiêu chuẩn đề bạt giáo sư đại học chưa đặt nặng và các tiêu chuẩn NCKH và bài báo khoa học. Chính vì thế mà hiện nay, chúng ta thiếu hẳn một lực lượng giáo sư có khả năng và kinh nghiệm NCKH tầm cỡ quốc tế. Sinh viên đáng lẽ là những “mầm non” khoa học, nhưng rất tiếc họ chưa được hướng dẫn NCKH có hệ thống, cho nên khi ra ngoài học họ cảm thấy bị thua thiệt so với đồng môn người nước ngoài.

Thứ hai, ngân sách dành cho NCKH ở nước ta còn quá khiêm tốn. Theo thống kê hiện nay, đầu tư cho khoa học và công nghệ ở nước ta chỉ khoảng 2% chi ngân sách Nhà nước. Có công trình nghiên cứu dịch tễ học thực hiện trên hàng ngàn đối tượng mà kinh phí cũng chỉ 50.000 USD! Với một kinh phí như thế, không ngạc nhiên khi thấy các đồng nghiệp trong nước phải hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài để tìm thêm nguồn kinh phí. NCKH ứng dụng tầm quốc tế đòi hỏi các phương tiện khoa học tương đối đắt tiền. Vì hoàn cảnh kinh tế, nước ta còn thiếu những phương tiện như thế, và có lẽ đó cũng chính là lời giải thích tại sao các nhà khoa học trong nước phải hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài. Thật ra, hợp tác trong nghiên cứu là một điều tốt trong hoạt động khoa học hiện đại, nhưng hợp tác như thế nào để thành quả và tri thức khoa học dựa trên chất liệu của Việt Nam vẫn là của người Việt Nam thì mới là vấn đề mà tác giả muốn đề cập. Tất nhiên, chỉ đơn giản tăng ngân sách đầu tư cũng chưa chắc đem lại những kết quả thiết thực, nếu không có một hệ thống tổ chức phân phối tài trợ cho các nhà nghiên cứu một cách công bằng và rõ ràng. ở các nước như Mỹ và úc, họ có một Hội đồng quốc gia (bao gồm đại diện là các nhà khoa học đến từ các ngành nghiên cứu) đứng ra xét duyệt và quản lý ngân sách NCKH. Mỗi năm, các nhà khoa học nộp những đề án nghiên cứu theo những khuôn mẫu có sẵn và các đề án này sẽ được Hội đồng gửi cho các đồng nghiệp (trong và có khi ngoài nước) kiểm duyệt kỹ lưỡng về tất cả các khía cạnh của công trình nghiên cứu, qua đó, họ sẽ quyết định tài trợ cho công trình nào có chất lượng nhất. Thiết tưởng đây cũng là một mô hình rất công bằng (dĩ nhiên là không công bằng tuyệt đối) mà chúng ta cần nghiên cứu kỹ để áp dụng.

Nhưng thiếu kinh phí và thiếu phương tiện hiện đại chỉ là vấn đề mang tính “ngoại tại”, còn một nguyên nhân “nội tại” đáng quan tâm hơn là vấn đề nhân lực. Nước ta vẫn còn thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm chuyên sâu, thiếu các nhà khoa học có kinh nghiệm làm nghiên cứu tầm cỡ quốc tế. Cho nên dù có phương tiện hiện đại và kinh phí, chưa chắc Việt Nam đã có chuyên gia sử dụng thiết bị và có khả năng thực hiện những nghiên cứu chuyên sâu. Theo thống kê năm 2000, chỉ có 15% giảng viên đại học có học vị tiến sỹ (một học vị cần thiết cho NCKH độc lập), và phần lớn các giáo sư đều ở độ tuổi 60-65. Với một lực lượng yếu như thế, không ngạc nhiên khi chúng ta chưa đủ khả năng để cạnh tranh trên trường quốc tế như là một tập thể mạnh. Trong khi đó, số lượng sinh viên chịu dấn thân vào NCKH còn quá ít, vì viễn cảnh về đồng lương dành cho các nhà khoa học còn quá khiêm tốn, nếu không muốn nói là quá nghèo nàn. Vì thế, ngay từ bây giờ Nhà nước cần có chính sách tuyển dụng nhân tài, nhất là giới trẻ, vào hoạt động khoa học và công nghệ nói chung, đặc biệt là NCKH. Cần phải khuyến khích sinh viên theo đuổi sự nghiệp khoa học, và biến NCKH thành một nghề nghiệp hấp dẫn.

Thứ ba là vấn đề tiếng Anh. Trên 80% số các tạp chí khoa học quốc tế sử dụng tiếng Anh, nhưng tiếng Anh lại là một nhược điểm, một rào cản lớn đối với các nhà khoa học Việt Nam, bởi vì một phần lớn được đào tạo từ Liên Xô và các nước Đông âu trong thời gian trước đây. Có nhiều công trình nghiên cứu có ý nghĩa ở nước ta chẳng bao giờ có cơ hội xuất hiện trên các tạp chí quốc tế chỉ đơn giản vì cách diễn tả bằng tiếng Anh còn quá nhiều sai sót, đến nỗi ban biên tập đành phải “đau lòng” từ chối. Vấn đề tiếng Anh, mới đầu thoạt nghe qua tưởng như rất nhỏ, nhưng trong thực tế lại là một rào cản rất lớn cho các đồng nghiệp trong nước.

Khoa học Việt Nam chưa theo kịp đà phát triển kinh tế của đất nước, đó là một thiệt thòi. Chúng ta cần phải đẩy nhanh sự có mặt của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế. Để thực hiện việc này, chúng ta cần phải khắc phục ba vấn đề vừa nêu trên. Cụ thể là:

- Các trường đại học cần phải đặt tiêu chuẩn NCKH thành một ưu tiên hàng đầu (bên cạnh giảng dạy).

- Đưa các tiêu chuẩn công bố bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế vào hệ thống tiêu chuẩn để đề bạt các chức danh giáo sư, phó giáo sư.

- Có những hình thức khen thưởng (bằng tài chính, nếu cần) cho những công trình khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín.

- Từng bước tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ lên con số 4% hay 5% tổng chi ngân sách quốc gia.

- Thiết lập và tài trợ một số nhóm nghiên cứu hay phòng thí nghiệm trong các trường đại học và viện nghiên cứu để nuôi dưỡng các tài năng trẻ và làm đòn bẩy cho phát triển NCKH.

- Hợp tác với các nhóm nghiên cứu hàng đầu ở nước ngoài, kể cả các nhóm nghiên cứu của người Việt ở nước ngoài, để đào tạo các chuyên gia khoa học có trình độ quốc tế.

Nhiều nhà khoa học nước ta đã từng lên tiếng cảnh báo rằng, nền khoa học của nước ta đang xuống cấp nghiêm trọng, một phần là do mất cân đối trong đầu tư. Do đó, ngay từ bây giờ chúng ta cần xem xét lại định hướng hoạt động khoa học để có những đầu tư tương xứng. Theo ý kiến cá nhân tôi, chúng ta cần tập trung vào các ngành khoa học “mũi nhọn” nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và phát triển kinh tế như công nghệ sinh học (kể cả nông nghiệp và thủy sản), công nghệ thông tin, khoa học vật liệu, y học lâm sàng, môi trường học…

Trong quá khứ (và ngay cả ngày nay), chúng ta đã đánh giá quá cao những tấm huy chương loại nhỏ, và theo đuổi những cuộc thi tài cấp thấp, mà thế giới chẳng có nhiều người quan tâm. Đành rằng chúng ta có quyền tự hào về những học sinh đoạt những giải thưởng quốc tế về toán, vật lý, hóa học, tin học…, nhưng tính trung bình thì sinh viên đại học của ta vẫn còn kém về trình độ thực hành cũng như kỹ năng làm việc sau khi ra trường, và một bộ phận lớn trong đội ngũ giáo sư của ta vẫn chưa quen làm NCKH. Chúng ta quá chú tâm vào một thiểu số nổi bật mà bỏ qua phần đa số đang bị lu mờ. Đã đến lúc chúng ta phải nghiêm chỉnh nhìn lại “bức tranh lớn” để đưa khoa học Việt Nam lên một tầm vóc mới.

Nguồn: T/c Hoạtđộng khoa học, 1/2008, tr 22

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.