Nhìn lại chiến lược cơ khí trọng điểm…
9 năm trước đây, nhận thấy tầm quan trọng của ngành Cơ khí đối với sự phát triển kinh tế đất nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 186/2002/QĐ-TTg ưu tiên phát triển một số chuyên ngành và sản phẩm cơ khí trọng điểm để đáp ứng về cơ bản nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Đó là 8 nhóm ngành, gồm: Thiết bị toàn bộ, Máy động lực, Cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp và công nghiệp chế biến, Máy công cụ, Cơ khí xây dựng, Cơ khí đóng tàu thuỷ, Thiết bị kỹ thuật điện - điện tử, Cơ khí ô tô – cơ khí giao thông vận tải.
Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020 đã đề ra mục tiêu cụ thể là phấn đấu đến năm 2010 ngành cơ khí đáp ứng 45-50% nhu cầu sản phẩm cơ khí của cả nước, trong đó xuất khẩu đạt 30% giá trị sản lượng.
Kể từ đó đến nay, đã có nhiều văn bản hướng dẫn, nhiều chính sách ưu tiên nhằm tạo cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm cũng như các dự án đầu tư quan trọng.
Những kết quả quan trọng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong năm 2010, giá trị sản lượng toàn ngành Cơ khí đạt 206.223 tỷ VND, tăng hơn 6 lần so giá trị sản lượng toàn ngành Cơ khí đạt được năm 2000 (33.830 tỷ VND); Về giá trị xuất khẩu, nếu như năm 2006 chỉ đạt 1,878 tỷ USD thì năm 2010 đã đạt 6,7 tỷ USD. Điều đó cho thấy ngành Cơ khí đang trở thành một trong những ngành xuất khẩu quan trọng của nước ta.
Về công nghiệp đóng tàu, Việt Nam đã có thể chế tạo được các loại tàu có chất lượng, đạt tiêu chuẩn Quốc tế như: tàu chở hàng tải trọng từ 6.500 tấn đến 53.000 tấn, các loại tàu cao tốc phục vụ an ninh, quốc phòng, các loại tàu chở hàng conteiner, tàu chở dầu thô cỡ 104.000 DWT, tàu chở xe ô tô 4.900 xe, kho nổi chứa dầu thô 150.000 tấn… Hiện ngành đóng tàu đã có thể hoàn toàn thoả mãn nhu cầu trong nước và đã ký được nhiều hợp đồng đóng tàu xuất khẩu cho các nước khu vực châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc….
Về thiết bị toàn bộ, ngành Cơ khí cũng đã đạt được những thành tích đáng kể: Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA) đã trở thành nhà tổng thầu EPC đầu tiên của Việt Nam khi trúng thầu các gói thầu số 2 và 3 của Nhà máy lọc dầu Dung Quất, tiếp đến là chế tạo và lắp đặt phần lớn các thiết bị chính của Nhà máy Nhiệt điện Na Dương, nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ 3,4; LILA-MA cũng đã được Thủ tướng Chính phủ giao làm tổng thầu EPC dự án Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí mở rộng công suất 300MW với tổng vốn đầu tư lên tới 300 triệu USD, Nhà máy Điện Cà Mau công suất 750MW…
Ngành công nghiệp ô tôđã sản xuất, lắp ráp được các loại xe buýt đến 80 chỗ chất lượng cao, với tỷ lệ nội địa hoá đến 40%; chế tạo ô tô tải nông dụng, ô tô tải nặng và xe chuyên dùng; ngành Cơ khí đường sắt đã đóng được các toa xe lửa cao cấp chở khách với tỷ lệ nội địa hoá có thể đạt tới 70%.
Ngành công nghiệp xe gắn máy cũng đã có những tiến bộ vượt bậc, không những thoả mãn nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu khoảng 150.000 xe/năm (chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Tỷ lệ nội địa hoá các loại xe gắn máy do trong nước sản xuất đạt khoảng 80-90%.
Đối với các nhà máy thủy điện có công suất đến 300 MW, trước đây chúng ta vẫn phải nhập khẩu cả các thiết bị cơ khí thủy công thì nay toàn bộ phần này có thể do các doanh nghiệp cơ khí trong nước đảm nhận, kể cả đối với các nhà máy thủy điện lớn như Thủy điện Sơn La có công suất đến 2.400 MW. Các Liên danh cơ khí trong nước đã chế tạo và cung cấp các thiết bị cơ khí thuỷ công cho các nhà máy thủy điện: A Vương, Plêykrông, Bản Vẽ, Quảng Trị, Sesan 3, Sesan 4, Đồng Nai, Huội Quảng, Bản Chát, Sơn La v.v… với tổng trọng lượng thiết bị lên tới hàng chục nghìn tấn.
Các ngành sản xuất cơ khí khác như sản xuất động cơ Diesel các loại, sản xuất xe đạp, máy bơm nước, các loại cần trục, cầu trục, cơ khí xây dựng v.v.. đều đạt được những thành tựu đáng kể. Ngành xe đạp với năng lực sản xuất trong nước khoảng trên 3 triệu xe/năm, chủ yếu phục vụ xuất khẩu với kim ngạch hàng trăm triệu USD/năm. Ngành sản xuất động cơ Diesel với năng lực hiện tại đến 40.000 chiếc/năm, đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu thị trường trong nước. Chúng ta đã có sản phẩm động cơ Diesel cỡ nhỏ xuất khẩu sang các nước Trung Đông, ASEAN v.v…; Công ty TNHH Công nghiệp nặng Doosan Việt Nam đã sản xuất và cung cấp cho một số dự án lớn ở trong nước và xuất khẩu các sản phẩm đạt tiêu chuẩn Quốc tế như: bình bồn áp lực, thiết bị lò hơi, thiết bị khử mặn….; Xí nghiệp Cơ khí Quang Trung (Ninh Bình) là một doanh nghiệp dân doanh nhưng đã tích cực đầu tư, đi sâu vào nghiên cứu thiết kế các loại cầu trục, cổng trục, thiết bị nâng chuyển và đã chế tạo thành công cầu trụ có sức nâng đến 1.200 tấn trước đây vẫn phải nhập ngoại; Một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh như Sinco, Bùi Văn Ngọ, Cơ khí VINA Nha Trang đã chiếm lĩnh thị phần trong nước về máy xay xát lúa gạo, cà phê, sản phẩm của các doanh nghiệp này cũng đã xuất khẩu sang khu vực Đông Nam Á, Châu Mỹ, Châu Phi v.v…
Đặc biệt, trong năm 2010, ngành Cơ khí Dầu khí đã chế tạo và hạ thuỷ thành công dàn khoan tự nâng có độ sâu 90m nước, thay thế hoàn toàn cho việc nhập khẩu sản phẩm này từ nước ngoài. Đây là sản phẩm cơ khí chế tạo ứng dụng công nghệ cao lần đầu tiên được tổ chức sản xuất tại Việt Nam, với tỷ lệ nội địa hoá là 35%.
Và những điều còn chưa làm được
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong quá trình thực hiện Quyết định 186/2002/QĐ-TTg như đã nêu ở trên, nhưng xét về chi tiết thì ngành Cơ khí Việt Nam vẫn còn có rất nhiều yếu kém, bất cập.
Năm 2010 cơ khí trong nước mới chỉ đáp ứng được 34% nhu cầu cơ khí toàn quốc (thấp hơn so với mục tiêu 45-50% mà Chính phủ đề ra trong Quyết định số 186/QĐ-TTg).
Về tình hình nhập khẩu, theo báo cáo của Bộ Công Thương và Tổng cục Thống kê, năm 2006 giá trị nhập khẩu cơ khí 8,1 tỷ USD, nhưng đến năm 2010 đã tăng lên 19,12 tỷ USD, trong đó giá trị nhập khẩu máy móc, thiết bị để phục vụ sản xuất chiếm tỷ lệ cao nhất (năm 2006 là 6,6 tỷ USD; năm 2010 là 12,3 tỷ USD). Điều đó cho thấy sản xuất trong nước vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. Trong khi đó, nhóm sản phẩm thiết bị toàn bộ, chúng ta vẫn chưa làm chủ được việc thiết kế và chế tạo mà vẫn phải dựa vào sự hỗ trợ của các công ty nước ngoài. Chúng ta chưa có nhà máy tạo phôi lớn về đúc, rèn. Sự phối hợp giữa chủ đầu tư và các đơn vị thiết kế, chế tạo chưa chặt chẽ nên năm 2010 mới đáp ứng khoảng 10% nhu cầu thiết bị toàn bộ, không bảo vệ được thị trường.
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, một hệ thống các phòng thí nghiệm thuộc ngành Cơ khí cũng như hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật đã được Nhà nước đầu tư. Điều đó, đã khuyến khích được sự nỗ lực, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của tập thể cán bộ, các nhà khoa học. Giai đoạn 2001-2010, có 47 đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, 20 dự án sản xuất thử nghiệm và hàng trăm đề tài nghiên cứu cấp bộ. Nhiều công trình nghiên cứu đã được ứng dụng có hiệu quả. Trong số đó, điển hình là Viện Nghiên cứu Cơ khí (NARIME) – đơn vị luôn tích cực phối hợp với các doanh nghiệp để đạt nhiều thành tựu trong công tác tư vấn, thiết kế các công trình nhà máy xi măng, điện, dầu khí…
Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế thì công tác nghiên cứu phục vụ phát triển ngành Cơ khí vẫn còn hạn chế. Nhiều công trình còn thiếu tính ứng dụng và không tìm được nguồn đầu tư. Nguyên nhân là do chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa các chương trình, đề tài khoa học công nghệ với các hoạt động kinh tế - xã hội cũng như với hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn kinh tê, tổng công ty và doanh nghiệp.
Về công tác tư vấn thiết kế, đến nay, chúng ta chỉ mới làm chủ được công tác thiết kế thiết bị cơ khí thủy công, còn lại các nhóm thiết bị khác vẫn không đáp ứng được nhu cầu thị trường; công nghệ, thiết bị còn lạc hậu, chưa có tính cạnh tranh nên về cơ bản vẫn chưa hoàn toàn làm chủ. Ngoài ra, ngành công nghiệp tạo phôi cũng như công nghiệp phụ trợ cũng chưa phát triển. Tuy hiện nay trong nước đã sản xuất-lắp ráp được một số loại xe chuyên dùng và xe máy có thể thay thế nhập khẩu, nhưng hầu hết các phụ tùng ô tô và xe máy có thương hiệu cao cấp vẫn phải nhập khẩu.
Tất cả những yếu kém, hạn chế trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: cả chủ quan lẫn khách quan, trong đó chủ yếu vẫn là do các doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm mới, chất lượng cao. Thêm nữa, lực lượng nghiên cứu, thiết kế, chế tạo phục vụ cho các dự án thiết bị toàn bộ cũng thiếu. Bên cạnh đó, việc phát triển các ngành công nghiệp khác với Chương trình phát triển ngành Cơ khí, các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài còn thiếu sự gắn kết, mục tiêu của Chiến lược quá rộng; công nghiệp phụ trợ chưa được chú trọng; lãi suất ngân hàng cao… Đây là những yếu tố cản trở khiến các doanh nghiệp cơ khí trong nước không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc thực hiện các gói thầu lớn cũng như thiết kế, chế tạo những sản phẩm ưu việt.
Để đầu tư phát triển ngành Cơ khí Việt Nam ổn định, bền vững, phát huy được vai trò của ngành trong bối cảnh hội nhập và đóng góp vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, Nhà nước cần coi phát triển ngành cơ khí như phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Theo đó, cần rà soát, bố trí lại các lĩnh vực cơ khí theo các nhóm, tạo điều kiện về nguồn vốn đối với các dự án sản phẩm cơ khí trọng điểm. Mặt khác, hỗ trợ ngành Cơ khí trong nước thông qua cơ chế tạo đơn hàng, chỉ định thầu hoặc chỉ đấu thầu trong nước các phàn việc mà cơ khí trong nước thực hiện được, đặc biệt là những gói thầu có quy mô lớn. Nhà nước cũng cần khuyến khích và tạo điều kiện để các doanh nghiệp cơ khí thuộc các thành phần kinh tế tham gia Chương trình cơ khí trọng điểm; Xây dựng chiến lựoc phát triển của thị trường và lựa chọn các sản phẩm có lợi thế để phát triển.
Về phía doanh nghiệp, cần tăng cường liên kết, hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp bạn trong và ngoài nước, kết hợp với đổi mới công nghệ, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tăng cường phối hợp với Nhà nước để tranh thủ những điều kiện thuận lợi phát huy nội lực của mình để góp phần đưa ngành Cơ khí trở thành một trong những ngành kinh tế trọng điểm, có đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.








