Nhận thức về xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế
Vấn đề thứ nhất, nhận thức về xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Vấn đề thứ hai, việc làm và đời sống của dân cư, đảm bảo việc làm ổn định, hữu dụng; đảm bảo toàn dụng lao động; tiền lương, tiền công, tiền thưởng phải đảm bảo công bằng, hợp lý, có ý nghĩa và tác dụng thúc đẩy tích cực của người lao động thực sự là động lực phát triển kinh tế và góp phần lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Vấn đề thứ ba, chấn hưng giáo dục, đảm bảo cho mọi người dân và con em họ có cơ hội tiếp cận, thụ hưởng quyền và lợi ích trong học tập, trong một xã hội học tập và tiến tới kinh tế tri thức. Phát triển y tế và chăm lo sức khỏe cộng đồng, nhất là đối với phụ nữ, trẻ em nghèo, các đối tượng yếu thế, thua thiệt trong phát triển. Vấn đề thứ tư, tình trạng bạo lực và bạo hành trong đời sống gia đình và xã hội, đối với phụ nữ và trẻ em; Tình trạng tai nạn lao động và tai nạn giao thông cùng với môi trường sống bị ô nhiễm làm cho độ an toàn cuộc sống bị suy giảm, bị đe dọa, cần phải được xử lý theo luật định phòng ngừa từ gia đình, nhà trường, cơ quan, công sở và cộng đồng dân cư đến sự phối hợp thực tiễn về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong tiến trình đổi mới; chuyên môn sâu về quản lý phát triển xã hội, tạo điều kiện để phát triển mạnh mẽ khoa học quản lý xã hội trong một, hai thập kỷ tới, phục vụ có hiệu quả các chiến lược và chương trình quốc gia theo mục tiêu phát triển bền vững.
Về nhận thức xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Ban Chủ nhiệm đề tài đã đề cập đến những nội dung cơ bản sau:
Trong 25 năm đổi mới vừa qua, đổi mới tư duy ở nước ta đã đạt được một bước tiến rõ rệt và khá căn bản, từ các nhà lãnh đạo, quản lý các cấp, các cơ quan hoạch định chiến lược và chính sách đến giới trí thức sáng tạo và đông đảo dân chúng trong xã hội.
Đổi mới tư duy là thay đổi sự suy nghĩ, cách nghĩ, tầm nhìn về cuộc sống, về đời sống xã hội, về các mối quan hệ chi phối và quy định sự tồn tại và phát triển của cá nhân cũng như của cộng đồng.
Đó là sự thay đổi nhận thức, vượt qua những nhận thức cũ, hoặc sai lầm, hoặc hạn hẹp, phiến diện đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, từng bước vươn tới những nhận thức mới đúng đắn, hợp lý hơn, thích ứng với phát triển và tiến bộ mà thực tiễn đặt ra, thực tiễn đòi hỏi. Đó cũng là "làm mới" những tri thức, những hiểu biết vốn có. Đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức là tiền đề dẫn tới những hành động tự giác, tích cực và sáng tạo. Thay đổi cách nghĩđề làm mở rộng tầm nhìn và thay đổi cách làm, thay đổi cả cách sống, lối sống, thay đổi cách ứng xử, tổ chức cuộc sống và quản lý xã hội theo hướng mới, tốt hơn, tiến bộ hơn. Nhờ đó, trong đời sống xã hội diễn ra những đổi mới, vừa là hành động, vừa là phong trào, tạo thành lực lượng, định hình những nhân tố mới thúc đẩy phát triển. Đổi mới trở thành phương thức và động lực phát triển. Thực tiễn đổi mới chẳng những hối thúc mà còn tạo ra môi trường, điều kiện và hoàn cảnh để đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức và phát triển năng lực trí tuệ con người, "làm mới" lý luận cũng như hình thành lý luận mới. Điều này đặc biệt hữu ích và quan trọng đối với các chủ thể lãnh đạo, quản lý.
Giải phóng lực lượng sản xuất và giải phóng ý thức xã hội để phát triển mạnh mẽ và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng của xã hội vì mục đích phục vụ cuộc sống con người, phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc là tư tưởng chủ đạo, thể hiện tầm vócvà ý nghĩacủa đổi mới, là thành tựu nổi bật, có tầm khái quát rộng lớn nhất của đổi mới tư duy, nhận thức ở Việt Nam. Nó mở đường đi tới kinh tế thị trường, dân chủ hóa, mở cửavà hội nhập quốc tếnhư những quyết sách chiến lược của phát triển. Những nhận thức mới về xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội được hình thành dưới tác động của những nhân tố đó.
Trên lĩnh vực rộng lớn và phức tạp này, tư duy lý luận Việt Nam thời đổi mới đã dần dần định hình chín điểm mớisau đây:
Một, nhận ra phương diện xã hội trong xã hội tổng thể, đó là các vấn đề xã hội, các quan hệ xã hội và cơ cấu xã hội trong chỉnh thể cấu thành xã hội, liên quan trực tiếp đến đời sống con người.
Hai, phát triển xã hội tổng thể sẽ không thể thực hiện được nếu không quan tâm đúng mức, giải quyết kịp thời và hữu hiệu chiều cạnh xã hội bao gồm một tập hợp lớn các vấn đề xã hội bức xúc, thường nhật cũng như cơ bản, lâu dài của tồn tại người và phát triển người, đặt trong mối quan hệ không tách rời với các chiều cạnh(lĩnh vực) khác: kinh tế, chính trị, văn hóa.
Ba, phát triển xã hội phải định hướng mục tiêu và động lực vào phát triển con người ở mọi cấp độ: cá nhân - cá thể, tập thể - cộng đồng (các nhóm nhỏ và nhóm lớn) và xã hội (dân tộc, quốc gia - dân tộc, cộng đồng dân tộc trong nước và ngoài nước).
Bốn, phát triển xã hội đòi hỏi phải thống nhất kinh tế với xã hội, kinh tế với chính trị, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, với hệ thống các chính sách và mạng lưới an sinh xã hội; đầu tư cho xã hội, cho việc giải quyết các vấn đề xã hội là đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển mà sâu xa là phát triển con người, thành phần quan trọng và quyết định nhất của vốn xã hội trong phát triển.
Năm, quản lý phát triển xã hội đòi hỏi chủ thể lãnh đạo (Đảng) và quản lý (Nhà nước) phải có tầm nhìn chiến lượcvà chương trình hành động chủ động, tích cực, sáng tạo, kết hợp đồng bộcác công cụ quản lý từ chủ thể đến chính sách, cơ chế và chế tài, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đảm bảo các điều kiện của ổn định, phát triển và phát triển bền vững.
Sáu, cấu trúc lại mô hình tăng trưởng kinh tế, phát triển chính trị và phát triển văn hóa với vai trò tạo động lực cho phát triển xã hội, gồm: chuyển từ mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn tài chính sang tăng trưởng dựa vào vốn phi tài chính, đặc biệt là vốn con người; từ xem đầu tư phát triển xã hội với tư cách đầu tư cho phúc lợi xã hội sang đầu tư cho phát triển xã hội với tư cách đầu tư cho phát triển vốn xã hội, vốn con người; từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu; cải cách thể chế bầu cử nhằm buộc ứng viên cam kết khi ứng cử và chịu trách nhiệm xã hội khi trúng cử.
Bảy, hoàn thiện chức năng xã hội của Nhà nướcbằng việc xây dựng mô hình nhà nước dịch vụ công thông qua đổi mới chính sách phát triển dịch vụ, cơ chế chi trả phí dịch vụ và tổ chức cung ứng dịch vụ; tháo gỡ các rào cản tâm lý cản trở đổi mới quản lý phát triển xã hội.
Tám, vận dụng hợp lý các quy luật của thị trườngvào phát triển xã hội, đặc biệt là tăng sự cạnh tranh trong khu vực đặc biệt là tăng sự cạnh tranh trong khu vực công và giữa khu vực công với khu vực công với khu vực tư trong cung ứng dịch vụ phát triển xã hội.
Chín, mở rộng vai trò của các loại hình tổ chức vô vị lợi(gồm cả pháp nhân và thể nhân dân sự) trong phát triển xã hộibằng cơ chế, chính sách đặc biệt nhằm khắc phục các giới hạn của Nhà nước và thị trường đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Từ chín quan điểm đó về đổi mới lý luận phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội có thể rút ra mấy nhận xét cốt yếu sau:
- Tính hiện thực và hiệu quảcủa quản lý phát triển xã hội phải dựa trên những đảm bảo nguồn lực vật chất do tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo ra và quy định.
- Tính nhân văn và hiệu ứngtích cực của quản lý phát triển xã hội đòi hỏi phải thực hiện nhất quán nguyên tắc công bằng, bình đẳng xã hội đối với con người, với các cộng đồng người, với các cộng đồng người trong cơ cấu xã hội, thể hiện qua các chính sách, các giải pháp phát triển, lấy con người làm trung tâm, lấy chất lượng cuộc sống và triển vọng phát triển con người làm mục đích và mục tiêu.
- Tính dân chủ và pháp quyềncủa quản lý phát triển xã hội đòi hỏi phải đề cao vai trò của pháp luật và chính sách trong quản lý, thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước, không chỉ là chức năng cai quản mà ngày càng phải hướng nhiều hơn, mở rộng hơn tới chức năng phục vụ, dịch vụ xã hội. Nhân dân là chủ thể quyền lực xã hội, ủy quyền cho Nhà nước để Nhà nước thực hiện quyền lực nhân dân, bảo vệ dân và phục vụ dân, trong sự kiểm tra, giám sát của dân. Nhà nước pháp quyền của dâncho nên Nhà nước đó phải là nhà nước pháp quyền dân chủvà nhân văn, do dânlập ra và vì dânmà tồn tại. Quản lý phát triển xã hội của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường càng phải đặc biệt chú trọng đề cao luật pháp và đạo đức để công chức nhà nước thi hành công vụ vì dân, cũng như thông qua các tổ chức dân sự trong xã hội dân sự mà chủ động tổ chức các hoạt động phục vụ phát triển cộng đồng, giảm thiểu những gánh nặng không cần thiếtcho Nhà nước của mình. Kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự là một hệ thống chỉnh thể đem lại hiệu quả tốt nhất cho việc phục vụ cuộc sống của các công dân, phát huy được tiềm năng, phát triển các tiềm lực của dân để phục vụ dân và phát triển dân, từ dân sinh đến dân trí, dân quyền và dân chủ.
- Tính bền vững và triển vọngcủa quản lý phát triển xã hội trong xã hội đang đổi mới và hiện đại hóa đòi hỏi phải có một nhà nước mạnh, không chỉ mạnh về luật pháp, các thể chế và thiết chế mà còn phải mạnh bởi trình độ thành thạo trong quản lý, điều hành, bởi tính trong sạch đạo đức của bộ máy và đội ngũ công chức cùng với khả năng thực tế trong hoạt động tham chínhcủa người dân, đề cao tinh thần hợp tác và cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội.
- Độ an toàncủa phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đòi hỏi Nhà nước, xã hội và mọi người dân phải thường trực chăm lo cho sự an toàn của môi trường, trước hết là môi trường tự nhiên, "cái thân thể vô cơ" của con người và sự sống. Môi trường xã hội - nhân văn, đặc biệt là đạo đứcphải lành mạnh, phát triển ngày càng nhiều những nhân tính để tránh cho con người và xã hội khỏi những tổn thương do chính mình gây ra.
Tổng hợp những cái đó, tạo thành tầm nhìn, nhãn quan văn hóa trong quản lý phát triển xã hội. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh không chỉ là mục tiêu của đổi mới, của phát triển mà còn là tiêu chí đánh giá, thước đo xem xét hiệu quả quản lý phát triển xã hội.
Với nhận thức đó, lấy đó làm hệ quy chiếu, có thể nhận rõ những yếu kém, hạn chế, bất cập trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay với thất nghiệp và thiếu việc làm, mức sống thấp của một bộ phận dân cư, phân hóa giàu - nghèo làm gia tăng bất công xã hội, tệ nạn và tiêu cực, môi trường ô nhiễm, giáo dục suy giảm chất lượng, đạo đức xã hội xuống cấp, các dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe cộng đồng còn nhiều khiếm khuyết, tham nhũng và lãng phí còn rất nặng nề, gây tổn hại tới lợi ích của người dân và tiềm ẩn những mất ổn định và xung đột xã hội đang ngày một gia tăng.
Do đó, từ góc độ giáo dục nhận thức và nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý phát triển xã hội của Nhà nước, Ban chủ nhiệm đề tài kiến nghị:
- Đánh giá nghiêm túc, khách quan trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật về tình trạng bất tương thích giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội trong 25 năm đổi mới vừa qua. Làm rõ những hệ quả và hệ lụy của kinh tế thị trường, những yếu kém và cả những sai lầm trong quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của các cấp, các ngành gắn với trách nhiệm của các chủ thể có trọng trách và thẩm quyền trong việc giải quyết để từ đó, có nhận thức đúng tầm hơn về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội trong thời kỳ tới (5 năm, 10 năm và thực hiện chiến lược phát triển).
- Giáo dục sâu rộng trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và công chức các cấp về các vấn đề xã hội, chính sách xã hội, an sinh xã hội và quản lý phát triển xã hội. Đó không chỉ là giáo dục nhận thứcmà còn phải giáo dục và thực hànhvề trách nhiệm và chế độ trách nhiệm đối với người dân, từ việc làm, đời sống, học tập, sức khỏe, nhu cầu văn hóa tinh thần, đảm bảo an toàn cuộc sống của người dân, nhất là ở cơ sở, ở nông thôn, ở những vùng xung yếu đặc biệt khó khăn. Tận dụng các phương tiện thông tin đại chúng và hướng dẫn dư luận xã hội để nâng cao nhận thức từ phía người dân, làm cho người dân coi trọng hơn phương diện xã hội trong phát triển.
- Phải đặc biệt chú trọng thường xuyên yêu cầu giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, trong các đối tượng dân cư, nhất là thế hệ trẻ về các vấn đề xã hội, chú trọng giáo dục và thực hành trách nhiệm trong lao động, bảo vệ môi trường, quan tâm tới các đối tượng yếu thế, thiệt thòi và rủi ro.
- Tăng cường kiểm soát Nhà nước trong việc thực hiện các chính sách điều tiết để đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo sự thụ hưởng chính đáng của người dân những phúc lợi xã hội mà Nhà nước và cộng đồng đầu tư và hỗ trợ phát triển.








