Nhận thức về mình - Tiền đề để phát triển
1. Ngày nay, với sự phát triển vũ bão của khoa học công nghệ, những mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau giữa các thực thể có địa chỉ xa nhau nhất trên phạm vi toàn cầu cũng có thể trở nên “gang tấc”. Người ta cảm nhận và xướng lên sự cảm nhận về một “thế giới phẳng”. Người ta từng và đang nói về một cách thức tồn tại của những cá nhân nào đó không còn chỉ là thành viên của một cộng đồng “bé mọn” - gia đình, giòng họ hay bộ lạc, liên minh bộ lạc, bộ tộc - thậm chí không còn chỉ là thành viên của một xứ sở. một vùng lãnh thổ hay công dân của một quốc gia, mà là “công dân thế giới” (cosmopolis). Đó không phải là những ảo giác, nhưng đó cũng quyết không phải là trạng thái tồn tại của tuyệt đại đa số cư dân đang sống trên mặt đất này. Thế giới còn lâu, rất lâu nữa mới là “thế giới phẳng”. Các cấp độ cộng đồng (lớn, bé) còn lâu mới, thậm chí có thể là không bao giờ, trở nên “bình đẳng” và có được những điều kiện tồn tại ngang nhau, có được cảm nhận về hạnh phúc đời sống tương đương nhau.
Bao giờ cũng vậy, mọi thời đều vậy, những kẻ hội được những điều kiện tồn tại ưu đẳng không hề muốn những người khác, nhất là những “kẻ dưới”, ý thức được sâu sắc về thực trạng của họ và của các “đối tác” của họ. |
Đối với một bộ phận - hiện hãy còn là nhỏ bé - của nhân loại, hội được những điều kiện tồn tại ưu đẳng hơn tuyệt đại đa số còn lại, thì việc xác định cái gọi là “bản sắc” “căn cước”, “căn tính” (identity) của dân tộc dường như là điều vô bổ, hoặc nữa, vô nghĩa lý. Đã từng và sẽ còn nhiều kẻ khuyến cáo như thế. Bao giờ cũng vậy, mọi thời đều vậy, những kẻ hội được những điều kiện tồn tại ưu đẳng không hề muốn những người khác, nhất là những “kẻ dưới”, ý thức được sâu sắc về thực trạng của họ và của các “đối tác” của họ. Dẫu là từ xa xưa, các bậc minh triết đã không mỏi mệt nhắc đi nhắc lại cho con ngưởi rằng hãy tự biết thật rõ mình là ai, và tha nhân là ai. “Tri nhân giả trí. tự tri giả minh”- biết người gọi là trí, biết mình gọi là minh, vậy cần cả minh lẫn trí, cần biết cả người lẫn mình.
Ngoài việc phải nhận ra rằng xã hội loài người hiện vẫn tồn tại nhiều cấp độ cộng đồng khác nhau, với mức độ bền vững và tác động chi phối đến cá nhân không như nhau, cũng cần ý thức rằng các cộng đồng đó tự thân mang sẵn những đặc điểm sai biệt to lớn giữa chúng với nhau. Là sản phẩm của các quá trình lịch sử đa dạng và dị biệt, trên thế giới ngày nay, chỉ xét riêng loại hình cộng đồng quốc gia - dân tộc, có thể nói đến những cộng đồng mở, cộng đồng nửa mở và cả những cộng đồng khép kín. Dĩ nhiên, độ mở của một cộng đồng, chừng nào còn được hình dung là một cộng đồng thực thụ, không thể là mở đến vô hạn, còn những cộng đồng được gọi là khép kín cũng không hoàn toàn loại bỏ những mối liên hệ với bên ngoài, mà chỉ có nghĩa là cộng đồng đó tồn tại chủ yếu bằng năng lượng nội sinh, nội tại.
Trong lịch sử Việt Nam, không một nhà cải cách nào, không một nhà cách mạng nào để lại tên tuổi của mình chỉ bằng cách vuốt ve nhân dân, mị cộng đồng, chưa ai từng là một nhà dân tuý có hiệu quả. |
Chắc chắn rằng nhận thức cho được những đặc điểm, “cá tính” của cộng đồng là một nhu cầu mang tính tiên quyết để định hướng cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng đó một cách hữu hiệu.
2. Vào giai đoạn hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản phương Tây, người ta chưa nói nhiều, bàn nhiều những gì liên quan tới điều mà về sau gọi là “đặc sắc dân tộc”, chưa nói nhiều đến “dân tộc tính”. Đến thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa thực dân trên quy mô thế giới, bộ máy tuyên truyền thực dân mới ra sức tuyên truyền về “tính ưu đẳng của một bộ phận thế giới đối với những phần còn lại”. Đó là thời kỳ “dĩ Âu vi trung” (eurocentrisme). Sự diệt vong trên quy mô thế giới của chủ nghĩa thực dân “kiểu cũ” kéo theo chiến lược tuyên truyền tinh vi hơn của các đế quốc, người ta bèn vận dụng đến ngón nghề “lập lờ đánh lận con đen”, làm hình thành nên một thứ “chủ nghĩa tương đối văn hóa” (relativisme culturel), thứ lý thuyết mang tinh thần “hòa cả làng”, “anh tốt, tôi hay, chúng ta cùng đều có giá”.
Phải nói rằng tác động ru ngủ của thứ lý thuyết này quả đã đạt tới mức tinh vi, khiến cho rất nhiều thành phần “chiếu dưới” được vuốt ve và cảm thấy yên ổn, bởi “dù sao, dưới mặt trời, mình vẫn còn có chỗ”. Chỉ những cộng đồng tự ý thức một cách quyết liệt mới tìm được cho cộng đồng mình một (những) giải pháp tồn tại và phát triển có hiệu quả cao nhất. Từ bài học lịch sử của các quốc gia – dân tộc đã chuyển đổi và chuyển đổi được thân phận, cả từ những bài học lịch sử của những cộng đồng quốc gia – dân tộc đã nỗ lực bất thành, có thể rút ra một kết luận dứt khoát: “mọi sự cách tân, đổi mới, cả các cuộc cách mạng nữa, chỉ có thể thành công và bảo vệ vững chắc được thành quả, khi giới lãnh đạo của các quốc gia – dân tộc nhận thức được và tìm ra cách thức để vượt qua được những hạn chế từ chính lịch sử của quốc gia – dân tộc mình, song song với việc nhận thức và phát huy được những truyền thống, những kết tinh quý báu cũng của quá trình lịch sử đó”.
Trong lịch sử Việt Nam, không một nhà cải cách nào, không một nhà cách mạng nào để lại tên tuổi của mình chỉ bằng cách vuốt ve nhân dân, mị cộng đồng, chưa ai từng là một nhà dân tuý có hiệu quả.
Dù có những thời điểm, dường như ta “quá quen” với chiến tranh, với bom đạn và cái chết, đến mức cảm thấy “tất cả như là trong báo yên” (Thơ Cảnh Trà), thì cũng không thể duy trì thường trực cái thói quen tai hại ấy! Một người đã không nên, không thể, mà một xã hội lại càng không nên, không thể. |
3. Như mọi người Việt Nam khác, tôi cũng mang trong mình một niềm tự hào rằng quốc gia – dân tộc này, nền văn hóa này thực sự đã đạt tới trạng thái “sâu gốc bền rễ”.Cứ nhìn vào danh mục hơn hai trăm quốc gia và vùng lãnh thổ hiện hữu trên thế giới ngày nay, “điểm danh” theo cách “cá kể đầu, rau kể mớ” thôi thì cũng dễ nhận ra rằng những quốc gia - dân tộc có “quốc tuế” lên đến 4 con số chỉ là một thiểu số. Tôi cũng từng say mê những dòng tuỳ bút cảm khái, xúc động mà anh Nguyên Ngọc viết ra trong “Đường chúng ta đi”. Thế hệ chúng tôi, thế hệ làm nên đội quân chủ lực thời chỗng Mỹ, chẳng mấy người học qua cấp hai mà không thuộc nằm lòng ít nhất là những dòng tâm huyết nhất: “Nếu có thể vẽ nên, thì lịch sử dân tộc có thể được tượng trưng bằng một thanh gươm tô đậm một màu máu”. Dĩ nhiên là anh Nguyên Ngọc không sai, bởi điều anh nói đó là sự thật, sự thật trăm phần trăm. Hơn nửa thế kỷ, truyền thống anh hùng chống ngoại xâm luôn luôn là hạt nhân của mọi truyền thống dân tộc. Nhưng chợt đến một ngày, khi nhận ra rằng võ công hào hùng của những ngày chưa xa không thể được “báo đáp” bằng tình trạng đất nước mãi vẫn chưa ra thoát vị trí của một quốc gia nghèo, khi có được một quãng thời gian đủ lâu không bị một kẻ ngoại xâm đe dọa xâm lăng trực tiếp nữa, khi đối diện với sự phát triển vũ bão của nhiều quốc gia - dân tộc khác còn mình đang có nguy cơ trở thành “bãi thải” của thế giới phát triển, thì ở chính anh Nguyên Ngọc, cũng như ở tôi, cùng nhiều người có tâm huyết với đất nước, xuất hiện một nhu cầu mãnh liệt muốn “bổ sung và kiến tạo” những truyền thống mới, những truyền thống khác nữa.
4. Mà ngẫm cho kỹ, không phải việc chống ngoại xâm (đáp ứng nhu cầu “tồn tại đã”) thời điểm nào cũng thành công. Lại ngẫm thêm nữa, mới thức ngộ ra rằng, liên tục phải chống ngoại xâm nghĩa là thể trạng quốc gia đã liên tục rơi vào trạng thái “yếu mãn tính”. F. Engels có lần đã phát biểu, rằng một “tất yếu nghiệt ngã” trong các thời đại và các xã hội có giai cấp, thì một quốc gia nào đó, khi nó yếu, nó bị xâm lược, khi nó mạnh, nó đi xâm lược. Không khác được. Đương nhiên, để không bị xâm lược, quốc gia phải mạnh, không chỉ “đủ mạnh”, mà “càng mạnh càng tốt”. Chiến tranh, ngoại xâm là trạng thái bất bình thường, ở bất kỳ một xã hội nào. Dù có những thời điểm, dường như ta “quá quen” với chiến tranh, với bom đạn và cái chết, đến mức cảm thấy “tất cả như là trong báo yên” (Thơ Cảnh Trà), thì cũng không thể duy trì thường trực cái thói quen tai hại ấy! Một người đã không nên, không thể, mà một xã hội lại càng không nên, không thể.
Do hàng mấy nghìn năm cứ mãi rơi vào trạng thái chiến tranh (thực sự hay tiềm tàng), ở mỗi người hay ở cả cộng đồng, những “giác quan và thói quen thời chiến” cơ hồ đã trở thành tập tính, thành “di truyền xã hội, di truyền văn hóa”. Nhanh nhạy, gọn nhẹ, trực giác định hướng tốt, nhiều sáng kiến nhỏ và tức khắc... đó là những phẩm chất của “chiến binh”. Nhưng tính hệ thống, thành tựu quy mô, tầm khái quát của tư duy, di sản đồ sộ cả về vật thể và phi vật thể... lại là những thứ xa lạ với “con người chiến binh” như vậy. Nhìn trên tổng thể, lịch sử không để lại cho chúng ta ngày nay quá nhiều vốn liếng khi bắt tay vào xây dựng một xã hội phát triển.
Không phải là trong toàn bộ chiều dài của lịch sử Việt Nam chỉ có chiến tranh nối tiếp chiến tranh, xâm lược liền kề với chống xâm lược. Cũng có những thời kỳ lịch sử xã hội vận động trong hòa bình. Và ở những thời kỳ như vậy, các triều đại lớn cũng đã kịp để lại những di sản và thành tựu, kịp chuyển hoá thành một số những đặc điểm lịch sử, bản sắc dân tộc. Nhưng, như có lần tôi đã đề cập, giới sử học ở ta chỉ mới kịp viết chủ yếu là lịch sử dân tộc Việt Nam chứ chưa phải đã là lịch sử xã hội Việt Nam, nên nêu lên những đặc điểm ở tầm “tổng kết” nào đó ở đây có lẽ là chưa phải lúc.
5. Nhưng đã là muộn, việc nêu lên một yêu cầu tự nhận thức lại về quốc gia - dân tộc, nhất là nhận thức lại để tìm ra cho bằng được cái “con người thật”, nói theo ngôn ngữ Phật giáo, cái “bản lai diện mục” mà bằng cả di truyền sinh học và di truyền xã hội - văn hóa, tổ tiên chúng ta đã để lại cho chúng ta ngày hôm nay. Đã hẳn rằng, không thể cứ ngây thơ để hồn nhiên cho rằng mọi thứ được truyền thừa lại đều tốt đẹp hay đều hữu ích, nhất là để phục vụ cho một mục tiêu mà cha ông chưa từng hiện thực hóa được trong lịch sử: Xây dựng bằng được một xã hội sao cho không kẻ nào còn có thể ăn hiếp được mình.
Nguồn: Tia sáng, 5/1/2008








