Nguyễn Xuân Ôn: vị lãnh tụ cần vương xuất sắc, nhà thơ yêu nước nổi tiếng
Nguyễn Xuân Ôn, hiệu Hiến Đình, bút danh Ngọc Đường, sinh ngày 23-3 Ất Dậu, năm Minh Mệnh thứ 6 (theo Dương lịch là ngày 19-5-1825) ở xóm Cồn Sắt, thôn Văn Hiến, xã Lương Điền, huyện Đông Thành, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An). Tổ tiên ông vốn gốc ở xã Trảo Nha, huyện Thiên Lộc (nay là xã Đại Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) dời ra vùng này đã được 7 đời (5). Thân phụ ông là một ông đồ nghèo, phải đăng lính thay em hơn 10 năm. Mẹ ông mất sớm. Bà nội nuôi mấy anh em khôn lớn trong cảnh nghèo khó.
Từ nhỏ, Nguyễn Xuân Ôn đã nổi tiếng thông minh, được người đời ca tụng là “bụng chứa đầy sách”. Nho, y, lý, số, và cả binh pháp ông đều am hiểu.
Năm 22 tuổi (năm 1847), ông đậu Tú tài tại trường thi Hương Nghệ An. Hai mươi năm sau cũng tại trường thi này, ông đậu Cử nhân, tiếp đó đến năm 1871, ông đậu Tiến sĩ, đồng khoa với Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.
Ngày ông thi đậu đại khoa, có rất nhiều quan lại, sỹ phu tặng thơ, câu đối chúc mừng. Bài văn mừng của quan thân An Tĩnh ký tên 148 vị từ Cử nhân trở lên, trong đó có 2 vị Thám hoa Ngụy Khắc Đản (1817-1878), Đặng Văn Kiều (1824-?) và nhiều vị từng giữ các chức vụ Thượng thư, Tổng đốc như Bùi Thức Kiên (1813-1892), Lê Tuấn (?-1874), Phan Huy Vịnh…
Tiến sĩ Nguyễn Nguyên Thành có câu đối mừng:
Ngô tổng văn chương hữu tiên trước,
Quân gia giáp đệ thị sơ đầu.
(Văn chương ở tổng ta ngài là bậc nhất
Đại khoa trong gia tộc, ngài cũng đứng đầu) (5,116)
Vị lãnh tụ Cần Vương xuất sắc
Lúc Nguyễn Xuân Ôn bước vào hoạn lộ cũng là lúc đất nước phải đối mặt với cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Triều đình Tự Đức từ chỗ chủ hòa dần đi đến chủ hàng. Vì có ý chí quyết tâm chống Pháp đến cùng, không hợp ý triều đình nên làm quan 11 năm thì 6 lần ông bị thuyên chuyển. Từ Tri phủ Quảng Ninh (Quảng Bình) chuyển sang làm Đốc học Bình Định, rồi về triều làm Giám sát ngự sử, sau đó lại chuyển đi Án sát Bình Thuận. Tại đây ông đã cho bắt một giáo sĩ người Pháp về hỏi tội vì y đã cho con chiên rước mình bằng lọng vàng - thứ lọng chỉ dùng rước vua. Thượng thư bộ Lại hạch ông về tội làm trái chủ trương hòa nghị của triều đình, Nguyễn Xuân Ôn bị chuyển sang làm Án sát Quảng Ngãi. Năm 1879, vua lại điều ông về triều đình đảm nhận chức Biện lý bộ Lại để tiện bề giám sát.
Tháng 4/1882, thành Hà Nội thất thủ lần thứ 2. Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Trung Kỳ tuy còn tạm thời được yên nhưng luôn bị bọn Pháp cho người dò la, nhất là ở vùng rừng núi. Nguyễn Xuân Ôn dâng sớ xin đi kinh lý trung du, đề xuất kế hoạch phòng và chống giặc. Vua Tự Đức khăng khăng chủ trương “ đánh không bằng hòa”, cử người ra Bắc thương thuyết với Pháp, xin đổi thành Hà Nội, đồng thời phái sứ thần sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nguyễn Xuân Ôn lại dâng sớ “ xin về quê để tập hợp và vỗ về nhân dân”. Vua Tự Đức không cho, chuyển ông sang làm Biện lý bộ Hình và sai ông đi điều tra các vụ kiện lặt vặt. Ông xin “ đình hoãn án kiện và trù bị thời sự” và điều trần “ các việc cần làm”. Vua xem sớ phê là “ kiến sự phóng sinh”(thấy việc nói tràn) và cách chức ông, bắt trở về quê nhà Nghệ An. Từ đó ông có điều kiện dốc lòng vào việc chống quân Pháp xâm lược đúng như sở nguyện (2).
Từ năm 1883 đến giữa năm 1885, tại xứ Đồng Thông (nay thuộc xã Đồng Thành - Huyện Yên Thành), Nguyễn Xuân Ôn “ chăm việc vỡ hoang đồn điền, tập hợp những người dân lưu tán, xếp vào đội ngũ, chờ lúc cần mà dùng” như mong muốn của ông trong bài tấu xin đình hoãn án kiện và trù tính thời sự.
Biết được các hoạt động của ông, năm 1885, phái chủ chiến trong triều Tôn Thất Thuyết (1835 - 1913) đứng đầu đã lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, cử người ra Nghệ An phong ông chức An - Tĩnh Hiệp đốc quân vụ đại thần có nhiệm vụ thống lĩnh nghĩa quân 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh chuẩn bị chống Pháp (2).
Đầu tháng 7/1785, kinh thành Huế thất thủ. Ngày 13/7, tại sơn phòng Tân Sở (thuộc tỉnh Quảng Trị) vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, kịch liệt tố cáo âm mưu quỷ quyệt của giặc Pháp và kêu gọi toàn dân đứng dậy cứu nước. Nhân dân khắp nơi nổi dậy hưởng ứng. Tại Nghệ - Tĩnh, nhiều văn thân, sỹ phu, hào trưởng thôn xã, bản mường đã dựng cờ khởi nghĩa…
Mùa Đông năm 1886, Nguyễn Xuân Ôn cùng với một số văn thân như Phó bảng Lê Doãn Nhạ (1837-1888), Tiến sĩ Nguyễn Nguyên Thành (1825-1887), các Cử nhân Trần Quang Diệm (1837-1907), Đinh Nhật Tân (1836-1887) tập hợp tướng sĩ làm lễ tế cờ tại vườn Mới, thôn Quần Phương quê ông, sau đó kéo lên Đồng Thông lập căn cứ kháng chiến lâu dài. Từ Yên Thành, địa bàn hoạt động của nghĩa quân mở rộng ra các huyện Diễn Châu, Anh Sơn, Con Cuông, Thanh Chương, Nghi Lộc… Nghĩa quân có trên 2000 người, được huấn luyện chu đáo, ngay từ buổi đầu đã đánh các trận phục kích hiệu quả ở Yên Lý, Cầu Bùng, tiếp đến là các trận bao vây diệt viện ở Cửa Lộng, Đồng Mờm, Tràng Thành, Bảo Nham… làm cho kẻ thù bao phen khốn đốn. Cuối năm 1886, nghĩa quân táo bạo thọc sâu xuống, tấn công chớp nhoáng đồn Pháp gần chợ Si (cạnh Quốc lộ 1) thuộc Diễn Châu rồi lui về giữa Đồng Thông. Năm 1887, nghĩa quân còn đánh nhau với giặc mấy trận ở vùng Sừng, Mọ, xóm Hố thuộc vùng Tây Bắc huyện Yên Thành.
Trong chiến đấu, Nguyễn Xuân Ôn nêu cao gương dũng cảm để khích lệ tướng sĩ. Nghĩa quân rất mực tôn sùng chủ tướng của mình, coi ông là người nhà trời. Ông là vị lãnh tụ Cần Vương xuất sắc có tầm nhìn xa, thấy rộng. Lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp, ông đã có dịp thực hiện đường lối chiến lược, chiến thuật mà ông đã từng trình bày trong các tấu, sớ gửi vua Tự Đức trước đó. Theo Lê Sỹ Thắng, ông “đã nêu lên những tư tưởng căn bản của việc tổ chức và phát động chiến tranh nhân dân để bảo vệ Tổ quốc”…là “nhà tư tưởng đứng ở vị trí cao nhất, đối diện với các vấn đề mà thực tiễn đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hồi nửa cuối thế kỷ XIX vạch ra…”(6,277).
Tuy vậy, cũng như hầu hết các nhà nho bấy giờ, ông còn tỏ ra bảo thủ khi cho rằng:
Trần Lê tự cổ hưng bình quốc,
Tằng hướng Dương nhân học kỹ phần?
(Nhà Trần, nhà Lê là những triều đại hưng thịnh ngày xưa
Nào có từng học kỹ thuật với người Tây?)
Nhưng quan điểm của ông không phải không có cơ sở. Đề ra chủ trương học kỹ thuật của kẻ thù trong khi ta đang đánh nhau với chúng sẽ không tránh khỏi gây ra tâm lý tự ti, khiếp sợ chúng. Hơn nữa kẻ thù không dại gì dạy ta những cái gây hại cho chúng.
Trong lúc đang điều trị vết thương ở bả vai tại làng Đồng Nhân (nay thuộc xã Mã Thành, huyện Yên Thành), Nguyễn Xuân Ôn bị giặc Pháp vây bắt ngay trên giường bệnh. Chúng tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc. Khâm sứ Pháp mấy lần gặp mặt, Nguyễn Xuân Ôn không chịu bái lạy y như các quan lại Nam triều khác. Không khuất phục nổi vị chủ tướng nghĩa quân được mọi người cảm phục, bọn Pháp quỷ quyệt đưa ông về Huế, định trút cho triều đình nhà Nguyễn trách nhiệm sát hại nhà văn thân yêu nước.
Đầu năm 1889, vua bù nhìn Đồng Khánh lâm bệnh mất, vua Thành Thái lên ngôi. Phong trào chống Pháp trên cả nước đã lắng xuống. Lúc này Nguyễn Xuân Ôn đã già yếu, bệnh tật nên Pháp giả nhân, giả nghĩa nhân danh vua mới “ân xá” cho ông, song không dám cho ông về quê mà quản thúc ở Huế. Ông lâm bệnh nặng. Lúc sắp mất ông nói với người đồng chí, đồng hương Nguyễn Hành: “Tôi sắp chết đây, tấm lòng báo quốc mong ông cố gắng” (2). Nguyễn Xuân Ôn trút hơi thở cuối cùng ngày 1 -10 -1889, thọ 64 tuổi.
Nhân dân cả nước, đặc biệt là giới sĩ phu vô cùng thương tiếc Nguyễn Xuân Ôn. Đám tang ông khởi hành trọng thể từ Đế đô Huế ra cửa Thuận An, do văn thân sĩ phu ở Huế đứng ra tổ chức. Từ đó, linh cữu được đưa xuống thuyền, rước về quê. Dọc đường, trên bờ biển nhân dân nhiều nơi tập trung hương án, hương đăng bái vọng, nên mỗi lần qua cửa lạch, cửa sông, thuyền chở linh cữu lại phải ghé vào. Về đến Cửa Vạn (Diễn Châu - Nghệ An), linh cữu được rước lên bờ và được văn thân sĩ phu, con cháu họ hàng và đông đảo quần chúng nhân dân chờ sẵn tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng tại quê nhà.
Nguyễn Xuân Ôn qua đời đã 188 năm nhưng tên tuổi của ông sống mãi trong lòng nhân dân quê hương. Một người đồng hương, một bậc đại quan triều Nguyễn nổi tiếng, bấy giờ đang giữ chức Sơn - Hưng - Tuyên Tổng đốc là Cao Xuân Dục (1841-1923) kín đáo ca ngợi:
Công thị, công phi, sự đại bách niên phương định luận
(Có công ư? Không có công ư? Việc lớn trăm năm sau mới nói được)
Cử nhân Nguyễn Hành, người từng giữ chức Giám sát ngự sử, từng tham gia khởi nghĩa Cần Vương ở Nghi Lộc, bị bắt và cùng bị giam ở nhà lao Huế với Nguyễn Xuân Ôn có câu đối:
Thiên cổ tinh trung danh bất hủ;
Nhất trường oanh liệt giác do sinh.
(Những bậc tinh trung như ông, ngàn năm danh bất hủ. Một trường oanh liệt muôn thuở không quên) (5).
Nhà thơ yêu nước nổi tiếng
Không chỉ là vị lãnh tụ Cần Vương xuất sắc, Nguyễn Xuân Ôn còn là nhà thơ yêu nước nổi tiếng nửa sau thế kỷ XIX. Các bộ lịch sử văn học Việt Nam đều dành cho ông vị trí xứng đáng.
Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn phản ánh tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Ông lên án gay gắt bọn quan lại bù nhìn tham sống sợ chết, vô trách nhiệm trong bài thơ nôm Cảm tác:
Thành trì phó mặc mấy thằng Tây,
Thế cũng cân đai với mũ giầy.
(Tất cả thơ văn từ đây trở đi đều trích từ cuốn Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn(6).
Ông đả kích cả vua Tự Đức, ông vua chỉ biết ung dung săn bắn giữa lúc dầu sôi, lửa bỏng:
Bồng thỉ tang hồ chí tứ phương
Tòng cầm nhật nhật đáo sơn dương
Nha tường cẩm lạm thi lô kính
Ngọc luyện kim dư trú thảo đường
(Cảm tác)
(Tên bồng, cung dâu, người nam nhi lấy chí ở bốn phương/ Thế mà ngày ngày đi săn trên núi/ Cột buồm dây neo đậu ở khe lau/ Kiệu ngọc, xe vàng đứng nơi bờ cỏ).
Ngược lại, ông ca ngợi các chí sĩ và nghĩa quân không sợ tù đày, chết chóc, dũng cảm chiến đấu:
Chí sĩ tâm tào luy tiết khổ
Nghĩa quân na quản tử vong lưu
( Cảm thuật)
(Bao nhiêu chí sĩ đều bị khổ vì nỗi gông cùm/ Người dân ứng nghĩa thì không quản gì chết chóc)
Có lúc nhà thơ mượn cảnh núi non hùng vĩ để gợi dậy khí thế hùng dũng của những đoàn quân ra trận và từ đó nghĩ đến truyền thống giết giặc cứu nước vẻ vang của nhân dân quê hương xứ Nghệ:
Ngô châu tư cổ sinh danh tướng
Huy chỉ giang sơn chuyển miện thanh(Võ Kỳ Sơn)
(Châu ta ngày xưa sinh nhiều vị danh tướng/ Vẫy tay trong chốc lát mà non sông trong sạch)
Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn mộc mạc, chân thành như phần lớn thơ văn các nhà nho xứ Nghệ. Ý chí mạnh mẽ, lòng yêu quê hương đất nước nồng nàn, nhân cách cao đẹp của ông tạo nên giá trị chính của thơ ông. Cử nhân Trần Quang Diệm, người bạn chiến đấu của ông trong bài Bạt Ngọc Đường thi tậpđã nhận xét xác đáng: “Đến như những ý niệm thương thời, ghét tục, gõ mái chèo, thề dẹp giặc thì lưu lại trên giấy mực không bài nào không có! Bởi vì khí phách cương trực, lớn lao bẩm thụ trời sinh vì thế thốt ra lời nói có thể làm khuôn phép cho đời, chẳng những xưng hùng trong thi đàn mà thôi… Ngàn năm sau người ta thưởng thức văn chương của tiên sinh, còn như mắt thấy tiên sinh… ”(3)./
___________
Tài liệu tham khảo chính
1. Chu Trọng Huyến (2004), Tính cách người Nghệ,Nxb Nghệ An.
2. Đinh Xuân Lâm (2005), Nhà văn thân yêu nước Nguyễn Xuân Ôn - ngọn cờ đầu của phong trào Cần Vương Bắc Nghệ An cuối thế kỷ XIXin trong cuốn 1380 năm Diễn Châu (627 - 2007), NXb Nghệ An.
3. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX,Nxb ĐH và THCN.
4. Nguyễn Nghĩa Nguyên (1993), Cụ Nghè Ôn, giai thoại và truyền thuyết,Nxb Nghệ An.
5. Lê Sĩ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 2, Nxb KHXH.
6. Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn(1961), Nxb Văn hoá.