Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 14/02/2006 01:22 (GMT+7)

Nguyễn Trường Tộ Nhà tư tưởng cách tân lỗi lạc

Nguyễn Trường Tộ là nhân vật lịch sử thuộc loại nói trên. Là một trí tuệ lỗi lạc, vượt trên tầm thời đại, nhưng khi ông đang sống thì bị nghi ngờ, bị bài xích. Ông qua đời thì bị lãng quên trên 30 năm, rồi được tưởng nhớ lại với cách nhìn khác. Ông là kẻ sĩ thời loạn, kẻ sĩ thời suy thoái.

Nói về những thời suy, Nguyễn Trường Tộ kể ra 6 loại kẻ sĩ:

1. Có người thấy thời vận không thể làm gì được, nên giữ mình trong sạch mà bỏ đi, trốn đời rồi mất hút.

2. Có người biết rõ chính thống đã suy, nhưng không thể vong tình, nên đem cái chết mà tạ đất nước.

3. Có người cho rằng bước suy thoái chỉ là tạm thời, biết mình không thể làm gì được trong hiện tại, nhưng vẫn tin ở sự chuyển biến tương lai, nên tìm cách ẩn dật, đợi thời cuộc sáng sủa.

4. Có người nhìn rõ bước suy vong đang diễn ra trước mắt, nhưng ở trong cái thế không nói ra được, đành dằn lòng nuốt hận, than dài như điên.

5. Có người trọng nghĩa, thấy vua quan hư nát thì lên tiếng can ngăn, bàn giải, nhưng nói không ai nghe, kiến nghị không được dùng, đành ôm hận mà chết, hoặc tự hại không ích gì cho đời.

6. Có người không chịu nổi bất công, sai trái, xấu xa trong thời suy nên đã phát chí mạnh mẽ, đứng ra chống chọi, mưu đồ một cuộc đổi thay, không tính đến sự mất còn của bản thân mình.

Sáu loại kẻ sĩ kể trên, Nguyễn Trường Tộ kể ra bằng một đoạn văn ngắn gọn mà trác tuyệt trong bản điều trần thúc giục triều đình Tự Đức “Phải gấp rút thực hiện các kế hoạch” (Xem Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo, trang 406)

Vậy thì Nguyễn Trường Tộ đứng ở vị trí nào trong sáu loại kẻ sĩ này? Có thể nói ông thuộc loại kẻ sĩ thứ 5: dám lên tiếng, dám điều trần, nhưng nói không ai nghe, kiến nghị không được dùng, còn bị nghi ngờ, bài xích… nên ông đã ôm hận mà chết với hai câu nổi tiếng:

Nhất thất túc thành thiên cổ hận

Tái hồi đầu thị bách niên cơ!

(Một bước sa chân, nghìn đời mang hận

Quay đầu nhìn lại, cơ đồ đã hoá trăm năm)

Đặt Nguyễn Trường Tộ vào loại kẻ sĩ thứ 5 kể trên là được, nhưng nếu thêm vào tám chữ sau: “Tự hại không lợi ích gì cho đời” thì sai. Điều lợi ích mà ông để lại cho đời thật là to lớn, mà biết bao người trong thời đổi mới ngày nay đang rất mực tôn vinh.

Trước hết ông để lại cho đời một tấm gương nhân cách sáng ngời, thể hiện ở 7 nội dung sau đây:

1. Thấy đất nước lâm nguy thì lo lắng hơn người, lo lắng sâu xa như lo cho chính bản thân mình.

2. Đối với bản thân thì ông luôn giữ phẩm chất con người, không ham tài sắc, không màng danh lợi, chỉ cốt trau dồi sở học, nâng cao bản lĩnh để góp phần giúp nước giúp đời.

3. Khi đã tích luỹ được kiến thức thì chỉ nghĩ cách đem kiến thức của mình ra góp phần canh tân đất nước.

4. Khi phải tạm thời làm việc cho địch thì không đem tài ra giúp chúng, mà chỉ tìm cách ngầm giúp triều đình.

5. Biết mình ở trong cảnh bị nghi ngờ, hiềm khích mà không hề oán trách; trái lại, thấy điều ích nước lợi dân thì hết lòng bàn giải theo phương châm “Biết mà không nói là bất nhân. Nói mà không nói hết là bất nghĩa”.

6. Khi đã đề xuất một kế hoạch thì sẵn sàng xin được tự mình góp sức. Với kế hoạch nguy hiểm như “Đánh úp thành Gia Định” ông xung phong làm khổ nhục kế.

7. Đã làm lợi cho nước thì nhất thiết không kể công. Ông tuyên bố với triều đình: Một khi xong việc, quét sạch quân thù thì xin từ chức về vườn phụng dưỡng mẹ già, quyết không nhận chức tước (sđd – trang 331)

Với nhân cách cao đẹp như thế, Nguyễn Trường Tộ để lại cho đời những dấu ấn trí tuệ, dấu ấn tư tưởng rất đẹp. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam hiếm thấy những danh nhân văn hoá đã phát biểu nhiều nghị luận có trình độ kinh bang tế thế như Nguyễn Trường Tộ.

- Với lịch sử tư tưởng kinh tếViệt Nam, ông là người đầu tiên mạnh dạn xin bỏ chính sách bế quan toả cảng, thực hiện mở cửa kinh tế, khai thác khoa học kỹ thuật nước ngoài để tiến lên dân giàu nước mạnh.

- Với lịch sử tư tưởng văn hoá và triết họcViệt Nam, ông là người mạnh dạn nhất phê phán triệt để những mặt bảo thủ, lạc hậu trong nho giáo, đề xuất tư tưởng học thực dụng, đưa khoa học hiện đại vào làm phong phú văn hoá, sửa đổi phong tục nước nhà.

- Với lịch sử tư tưởng ngoại giaoViệt Nam, ông là người đầu tiên đặt ngoại giao trong mối quan hệ toàn cầu để suy tính lợi hại, thoát khỏi tầm nhìn hạn hẹp cố cựu của triều đình, bởi ông am hiểu thời thế và các quy thức ngoại giao quốc tế hơn mọi người Việt Nam thời ấy.

- Với lịch sử tư tưởng quân sựViệt Nam, ông là người đầu tiên lên tiếng phản đối thói trọng văn khinh võ, chủ trương xây dựng binh thư binh pháp Việt Nam theo hướng tham khảo kim cổ đông tây, và xây dựng quốc thế về quân sự để kịp thời đối phó với kẻ thù xâm lược.

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng Nguyễn Trường Tộ có một số điều bất cập và hạn chế.

Xem xét đường lối cứu nước của Nguyễn Trường Tộ, có thể tóm vào mấy điểm chính sau đây:

1. Quân thù đang áp đảo ta về thế và lực thì đành phải tạm hoà.

2. Hoà mà phải giữ tư thế mình là chủ, buộc đối phương làm khách.

3. Tranh thủ tạm hoà để canh tân đất nước, tạo ra thế và lực mới.

4. Lợi dụng mâu thuẫn giữa các cường quốc với Pháp và trong nội bộ người Pháp để hạn chế, làm thất bại mưu đồ xâm lược của chúng.

5. Khi có thời cơ thì nắm lấy ngay (như khi Pháp thua trận chiến tranh Pháp - Phổ 1870 – 1871) để giành lại cái đã mất.

Chủ trương “tạm hoà” như thế không phải là sai. Xem như phái Duy tân Nhật Bản thời ấy cũng đã từng phải gạt bỏ khẩu hiệu nhương di(đuổi quân địch man rợ), thay bằng khẩu hiệu tôn vương đảo Mạc liên kết Âu Mỹ để tự cường, nhờ đó mà cuộc Duy tân thời vua Minh Trị tiến hành từ năm 1868 thành công rực rỡ.

Nhưng cáithế của Nguyễn Trường Tộ không như cái thế của phái Duy Tân Nhật Bản. Ở Nhật, các nhân sĩ Duy tân không phải là người theo đạo Thiên chúa như Nguyễn Trường Tộ. Họ là cả một trường phái đông đảo có hàng mấy chục học giả nổi tiếng và hàng nghìn vạn quần chúng hưởng ứng, không như Nguyễn Trường Tộ đơn độc một mình. Vả lại cái thế lớn của Việt Nam thời ấy cũng khác với Nhật. Ở Nhật hồi ấy có nhiều cường quốc Âu Tây cùng đến, có thể giao thiệp, tranh thủ, phân hoá; còn Việt Nam thì bị người Pháp bám lưng từ thời vua Gia Long, rồi bị xâm lăng từ đầu thời vua Tự Đức, lại thêm điều khoản “doãn hành” (có được Pháp đồng ý mới được giao thiệp với nước khác) trong hoà ước Nhâm Tuất 1862 chẹn họng, không có cách gì để mở rộng giao lưu như Nhật Bản.

Đứng trong tình thế đó mà Nguyễn Trường Tộ không quan tâm vận động các nho sĩ và nhân dân để truyền bá đường lối canh tân cứu nước của mình. Ông chỉ biết dựa vào triều đình vua Tự Đức, một ông vua hiền, giỏi văn chương nhưng dốt về binh pháp, dốt cả chính trị thời cuộc mà rất lúng túng trước quân Pháp hung hãn, xảo quyệt, lại rất e ngại sự phản kháng của nho sĩ và nhân dân. Đã thế, trong phê phán chữ nho ông lại đụng chạm đến cả tinh thần quyết chiến của số đông nho sĩ yêu nước, nên ông không thuyết phục được ai mà còn tạo ra một thế lực chống lại ông, thậm chí muốn tiêu diệt ông. Đó là điều bất cập lớn nhất.

Bên cạnh điều bất cập này ông còn điều hạn chế khác: Một là chưa hiểu sâu vấn đề dân là gốc chứ không phải là vua quan là gốc của nước. Hai là chưa biết gì về trào lưu cách mạng và tư tưởng dân chủ chống phong kiến ở Tây Âu mà thời ấy ở phương Đông chưa có.

Khách quan mà nhìn vấn đề, có thể thấy điều bất cập và hạn chế của Nguyễn Trường Tộ là gắn liền với thời thế. Bản thân Nguyễn Trường Tộ cũng là sản phẩm của thời thế, một thời thế đầy nghịch lý trong quan hệ giao lưu Đông – Tây và trong diễn biến lịch sử Việt Nam với một triều đình nhà Nguyễn đã thống nhất được đất nước sau 275 năm phân tranh, chia cắt, nhưng cũng mang tội “Cõng rắn cắn gà nhà” và cuối cùng làm mất nước. Nỗi đau lòng của ông trước thảm cảnh cộng đồng Gia Tô giáo bị khủng bố nhiều đợt cũng có thể tạo ra tâm lý phản ứng trước chính sách “Bình Tây sát tả” của nho sĩ và triều đình. Đó là hạn chế của bản thân ông và cũng là hạn chế của thời thế.

Thế mà hệ thống tư duy cách tân của ông đã vượt ra khỏi những hạn chế và bất cập nói trên để hình thành một luồng sáng rọi vào đám sương mù dày đặc của thành kiến nho giáo, thành kiến tôn giáo và sự u mê phong kiến đương thời. Luồng ánh sáng Nguyễn Trường Tộ thời ấy chưa làm tan được đám sương mù dày đặc kia, nhưng sau đó nó đã rọi qua các giai đoạn lịch sử. Mỗi khi thời thế cho phép thì luồng sáng Nguyễn Trường Tộ lại ánh lên, soi vào trí tuệ của người đời, soi tới thế hệ chúng ta ngày nay, những người đang lo toan đổi mới đất nước.

Sách có chữ “ Cái quan định luận”, lại có chữ “ Thiên thu định luận” là như thế. Giữa buổi giao thời thế kỷ XX và XXI này, chúng ta hãy tưởng niệm nhà tư tưởng cách tân lỗi lạc của đất nước.

Nguồn: Xưa và Nay, số 81B tháng 11 năm 2000

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.