Nguyễn Thông với Quảng Ngãi
Năm 22 tuổi Nguyễn Thông thi đỗ cử nhân khoa thi Hương ở Gia Định, 2 năm sau (1851) thi Hội, bài thi khá xuất sắc nhưng vô ý để lấm mực nên bị hỏng. Nhà nghèo, ông không thể theo đuổi việc học nữa nên nhận chức Huấn đạo huyện Phong Phú, tỉnh An Giang, mở đầu cho con đường làm quan đầy gian nan thử thách. Nguyễn thông chưa đỗ đại khoa, cũng chưa bao giờ giữ những chức vụ cao ở triều đình. Song bằng tài năng và đức độ của mình - chứ không phải bằng học vị và chức vụ - con người ấy đã có nhiều đóng góp cho lịch sử. Với lòng yêu nước sâu sắc lẫn năng lực hoạt động thực tiễn rất giỏi, Nguyễn Thông đã có cống hiến trên nhiều lĩnh vực như lịch sử, thuỷ lợi, hành chính, văn học…
Nguyễn Thông với việc biên soạn địa chí Quảng Ngãi
Địa chí Quảng Ngãi, với cái tên Quảng Ngãi tỉnh chí, là một quyển sách nằm trong bộ Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Các tác giả của nó đều là những bậc đại khoa, đại quan của triều đình. Thế nhưng khi đọc đến quyển sách này, Nguyễn Thông đã không ngần ngại phê phán: “Gần đây, những người biên soạn địa chí tỉnh Quảng Ngãi, phàm ma quỷ trên cạn, quái vật dưới nước đến các cảnh đẹp vô bổ mà bọn sính thơ đề vịnh, những tháp đá tiêu khiển của bọn sư già ăn rau, chẳng ích lợi gì đối với đời sống hàng ngày của nhân dân thì không cái gì mà không ghi chép lê thê. Còn như đê đập mương ngòi tắc hay thông, tốt hay xấu thì không hề nói tới, người đọc rất tiếc”
Dù cho rằng lời phê của Nguyễn Thông có hơi quá đi một chút, người ta vẫn không thể không thừa nhận đó là những lời phê phán có cơ sở. Một công trình địa chí, nếu không hướng tới phục vụ yêu cầu của cuộc sống thì còn phục vụ điều gì? Điều đáng quý hơn nữa là Nguyễn Thông không đứng ngoài cuộc để phê phán. Trong Nghĩa Châu thuỷ lợi tiểu sách tự (Lời tựa tập sách nhỏ về thuỷ lợi ở Quảng Ngãi) đã trích dẫn trên, Nguyễn Thông đã vô hình chung chứng minh những kiến thức rất sâu sắc của mình về thuỷ lợi: “Cái việc tưởng như viển vông nhưng thật ra là cần thiết, tựa như thư thả nhưng thật ra là cấp bách, ấy là việc thủy lợi. Quốc gia muốn để dành trăm vạn đều lấy từ nghề nông, nông dân muốn đủ ăn quanh năm đều lấy ở ruộng đồng, song nếu một phen nắng hạn, rồng đất cầu mưa chẳng nghiệm, hoa lợi ruộng đồng tổn thất, thì lấy đâu mà thu tô thuế, lấy đâu mà lo áo cơm? Việc thuỷ lợi đối với đời sống của dân, thuế khoá của nước rất là cần thiết cấp bách nên không thể không bàn rõ vậy”. Nguyễn Thông đã thêm một lần chứng tỏ những hiểu biết sâu sắc của mình về công tác thuỷ lợi ở Quảng Ngãi qua bài Vịnh Lợi cừ ký (Bài ký về kinh Vĩnh Lợi) khi ông viết: “Phàm chỗ không hay của các kinh, không gì đáng ngại bằng cong queo, nhỏ hẹp, nông cạn, nhưng duy kinh này thì thích hợp. Đường kinh quanh co trên đất sau làng, tưới tiêu đều tiện, nên cong queo lại có lợi. Miệng kinh hút nước sông Vệ, nhân vì nhỏ hẹp nên thế nước chảy xiết, đủ sức đẩy xe nước quay nhanh, nên nhỏ hẹp lại có tác dụng. Từ miệng kinh trở đi, nông dân đặt mười mấy xe nước, nếu sâu thì nước sông Vệ tràn vào quá nhiều, nước chảy chậm thì xe dừng lại, sẽ có điều lo lợi chỗ này thì hại chỗ kia. Duy đường kinh chứa nước có hạn, đôi đường cùng có tác dụng, nên nông cạn lại thích hợp. Nhưng nhiều người cho rằng vì cong queo, nhỏ hẹp, nông cạn, gấp gáp muốn nắn cho thẳng, mở cho rộng, vét cho sâu, há chẳng phải là “sai sao”. Nguyễn Thông chỉ nhân tiện nói qua đôi câu, những điều ông nói vẫn có sức nặng bởi kiến thức và lối biện luận sắc sảo ở ông.
Với một số chính sách của triều đình
Là một ông quan, Nguyễn Thông không thể không chấp hành những chính sách do triều đình ban bố. Lối tư duy độc lập, óc phê phán sắc sảo nhờ phương pháp lật ngược vấn đề khiến ông sớm nhận thấy những khiếm khuyết trong chính sách của triều đình và ông đã không ngần ngại nêu ý kiến của mình thông qua các sớ. Lại nói về thuỷ lợi, trong Trần thuỷ lợi tài thụ nghi sớ (Sớ trình bày về thuỷ lợi và việc trồng cây) sau khi khẳng định lại tính đúng đắn trong chỉ dụ của nhà vua, Nguyễn Thông đã mạnh dạn nêu ra những điểm bất khả thi trong thực tế và vạch rõ sự bất hợp lý của chính sách với những lời lẽ tranh luận: “Lại xét rằng hạt của thần, thuế biệp nạp chỉ có thôn Đông Dương xã Văn Lâm, xã Long Phụng, thôn Phước Lộc xã Bồ Đề, xã Năng An phải nộp thuế guồng nước đồng niên hơn 80 quan. Song nghề nông không gì cần bằng nước, việc đắp đập khơi ngòi là làm lợi cho dân, dù cho tiêu tốn công quỹ triều đình cũng không tiếc, huống chi kẻ tiểu dân phải tự lo lấy mà lại theo bắt nộp thuế sao?”. Quay sang việc trồng cây, tờ sớ cũng vạch ra tính bất khả thi nếu chỉ tuân theo chỉ dụ, với ba lý do chính: 1/…việc trồng cây là việc của mười năm, mà các quan phủ huyện thì thường thuyên chuyển, các tổng lý chỉ làm lấy lệ. 2/ Khi đã thành cây, lại bị người ta chặt trộm, không dễ truy xét. 3/ Địa hình phức tạp, nhiều chỗ không thể kiểm tra được, chỉ căn cứ vào báo cáo từ cấp dưới thì không tránh khỏi sự thổi phồng sai sự thực. Từ thực trạng đó, Nguyễn Thông đã đề ra các giải pháp: 1/ Đối với đường cái quan (đường thiên lý Bắc Nam) thì cứ hai trượng trồng một cây, “xin giao các quan phủ huyện căn cứ theo số trượng mà sức cho các tổng lý sở tại đốc sức dân các làng đem mít và mù u theo phần đất mà trồng, rồi giao cho chủ ruộng và người cày ở hai bên đường chăm sóc trông coi (chúng tôi nhấn mạnh -C.C), hằng ngày sáng chiều trên ruộng thì nhân đó trông coi giữ gìn luôn cũng gần gũi tiện lợi”. 2/ Đối với các xã có đường lớn chạy qua và có gò, đất trống thì cũng phải trồng cây “Xin qui định xã lớn trồng ít nhất 200 cây, xã vừa trồng ít nhất 100 cây, xã nhỏ trồng ít nhất 50 cây” và “cũng giao cho chủ ruộng và người cày chăm nom, lâu năm có trái thì được phép hái lấy”. 3/ Toàn bộ số cây trồng ở nơi công cộng nói trên đều phải đăng ký lưu chiếu ở tỉnh, các quan phủ huyện phải thường xuyên kiểm soát, cho trồng bù cho đủ số, quan tỉnh cũng sẽ thường xuyên nhắc nhở. 4/ Cuối năm phải tổng kết báo cáo lên Bộ một lần. Cứ 3 năm quan đầu tỉnh sẽ họp với các quan phủ huyện đi khám hết một lượt và làm tờ trình gửi về Bộ. Và cuối cùng, tờ sớ kết luận: “Như vậy, lúc nào cũng trồng bù, nơi nào cũng chăm nom, dân có trách nhiệm, quan có xét công, không hỏng vì chỗ quá buông lỏng, cũng không hỏng vì chỗ quá hối thúc, sau mười năm gỗ sẽ thừa dùng vậy”. Không rõ trên thực tế việc tổ chức trồng cây như Nguyễn Thông trình bày có hiệu quả ra sao, và ông có đủ thời gian ở Quảng Ngãi để thực hiện việc này không, song rõ ràng là văn bản này đã chứng minh một cách hùng hồn óc tổ chức rất cao ở ông. Ở đây, ông định rõ trách nhiệm, quyền lợi lẫn nghĩa vụ của quan và dân, tránh được tình trạng “cha chung không ai khóc” mà mãi đến mấy năm gần đây chúng ta hãy còn mắc phải.
Nguyễn Thông với giáo dục và truyền thống yêu nước
Không chỉ là một ông quan Bố chánh, trước và sau khi làm Bố chánh Quảng Ngãi (1869 đến 1871), Nguyễn Thông đã giữ nhiều chức học quan, nhỏ thì làm Huấn đạo (huyện Phong Phú, An Giang, 1851), lớn thì làm Hàn Lâm Viện Tu soạn, rồi Hàn Lâm viện trước tác ngay tại triều đình. Năm 1870, nhân đi chấm thi ở trường Thừa Thiên, thấy thí sinh chỉ dựa vào sách toát yếu chỉ học tắt để thi chứ không chú trọng đến thực tế kiến thức, Nguyễn Thông liền dâng sớ đề nghị quy định rõ loại sách cấp cho các trường. Bị Bộ Lễ bác, năm sau ông lại dâng sớ tranh luận và cuối cùng thì triều đình phải chấp nhận. Năm 1876, với chức Tư nghiệp Quốc Tử giám, ông tham gia phúc kiểm bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, do một số đề nghị sửa chữa của ông bị bác bỏ mà ông phải viết quyển Việt sử Thông giám Cương mục Khảo lược nhằm đính chính cho bộ sách nói trên. Tất nhiên ở đây có thể hiểu không phải Nguyễn Thông bao giờ cũng đúng, song những việc làm đầy dũng cảm như vậy về mặt học thuật càng cho thấy rõ óc phê phán, không nghe theo một chiều, luôn thường trực trong ông.
Nguyễn Thông làm quan trong thời kỳ đen tối của đất nước. Giặc Pháp càng ngày càng lộ rõ dã tâm thôn tính toàn bộ nước ta. Triều đình Huế chống trả giặc một cách yếu ớt, một mặt nhượng bộ giặc, một mặt ra lệnh cho lãnh tụ nghĩa quân ở Nam Kỳ là Trương Định bãi binh. Việc Trương Định cưỡng lại lệnh bãi binh xem như sự chống báng lại triều đình. Song, cũng như nhà trí thức lớn Nguyễn Đình Chiểu có hẳn một loạt bài thơ điếu khi Trương Định hy sinh, Nguyễn Thông đã viết bài văn xuôi Lãnh binh Trương Định truyện tác phẩm. Chưa kể giá trị tư liệu của tác phẩm, trước tiên ở đây càng sáng rõ sự suy nghĩ độc lập của Nguyễn Thông. Chính sự suy nghĩ độc lập và óc phê phán sắc sảo khiến Nguyễn Thông có những đóng góp đáng kể trên nhiều lĩnh vực, ông trở nên một trí thức thực thụ, chân chính.
Nguồn: Xưa và Nay, số 75, tháng 5/2000, tr 20, 21








