Nguyên nhân cái chết của vua Quang Trung
Đặt vấn đề về cái chết của vua Quang Trung
Phần lớn, các tài liệu lịch sử đều ghi là vua Quang Trung đã chết vì “bạo bệnh”. Sách Đại Nam chính biên liệt truyệncủa Quốc Sử quán triều Nguyễn ghi là “huyễn vựng” ( Nhất nhật vãn toạ hốt huyễn vựng kiến bạch đầu ông, dịch: Một hôm về chiều, vua Quang Trung đang ngồi bỗng xây sẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc…) (1). Tác giả Hoa Bằng thì cho rằng vua Quang Trung chết vì bệnh “huyết vựng”.
Vua Quang Trung đã được xem là một vị anh hùng dân tộc nên trong quá khứ đã có nhiều người quan tâm đến cái chết đột ngột của vị anh hùng áo vải.Cũng vì thế nên đã có nhiều người đặt ra nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của vịvua này. Tuy nhiên, từ trước đến nay vẫn chưa có một khảo cứu nào căn cứ vào Y khoa hiện đại,phối hợp với các sự kiện đã được ghi trong lịch sử để có thể cho chúng ta biết một cách chắc chắn hơn về bệnh trạng cũng như về nguyên nhân tử vong của vua Quang Trung vào hồi đó.
Và vì vậy, chúng tôi đã làm công việc đó.
Chúng tôi đã dựa trên các hiểu biết của nền Y học hiện đại và phối hợp với các tài liệu lịch sử giá trị của ngành Sửhọc Việt Nam còn lưu lại đến ngày nay để suy diễn bệnh tình của vua Quang Trung trước giờ lâm chung. Mục đích của chúng tôi là “Thử tái lập hồ sơ bệnh lý của vua Quang Trung Nguyễn Huệ từ khi xảy ra bạo bệnh cho đến ngày qua đời”. Chúng tôi hy vọng bài khảo cứu của chúng tôi ngày hôm nay sẽ có thể đưa ra được lời giải đáp cho hai câu hỏi chính yếu về “Cái chết của vua Quang Trung” mà mọi người chúng ta hằng quan tâm là:
1/ Vua Quang trung đã bị bạo bệnh đột ngột trước lúc qua đời , vậy đó là “căn bệnh“ gì ?
2/ Vua Quang trung qua đời nhiều ngày sau “bạo bệnh” , vậy “nguyên nhân tử vong” là gì ?
Thử tái lập hồ sơ bệnh lý của vua Quang Trung
I. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp làm việc của chúng tôi trong đề tài nghiên cứu căn bệnh của vua Quang Trung là căn cứ vào những tư liệu có giá trị đích thực của Sửhọc Việt Nam, những tư liệu có đả động đến bệnh trạng của Vua Quang Trung để suy nghiệm ra các triệu chứng khá “chắc chắn” của bệnh trạng củanhàvua hồi đó. Sau đó, chúng tôi đối chiếu các triệu chứng “chắc chắn” đó với một số các căn bệnh cũng có cùng những bệnh chứng đó trong Ykhoa ngày nay để có thể phỏng đoán được “bệnh trạng” củanhàvua là gì. Rồi từ “căn bệnh phỏng đoán” khá chính xác đó, chúng tôi lại sẽ quay ngược lại để biết thêm những “triệu chứng có thể” đã xuất hiện trên ngườivua sau ngày bạo bệnh, căn cứ vào các hiểu biết của Y khoa tân tiến ngày nay.
Độ chính xác của “căn bệnh phỏng đoán” củanhàvua trên thực tế chắc chắn sẽ không thể nào là 100% vì bao nhiêu ngày tháng đã trôi qua từ bấy đến nay (đã trên 200 năm),nhưng chúng tôi tin rằng đó là “độ chính xác cao nhất có thể đạt được và có thể tin cậy được” căn cứ vào các tư liệu hiện hữu và các hiểu biết của Y khoa ngày nay.
Trong bài khảo cứu nầy chúng tôi cũng đã phải sử dụng đến các sơ đồ “Flow Charts”, nói nôm na là sơ đồ của “cái này đưa đến cái kia” về triêụ chứng và về căn bệnh. Chúng tôi cũng áp dụng lối lý luận bằng “phương pháp loại trừ” của logic theo Y khoa ngày nay theo lối “không có cái này thì sẽ không có cái kia”. Chúng tôi cũng đã sử dụng một số kết quả về thống kê của các bệnh tật theo các khảo cứu của Y học ngày nay và chúng tôi cũng sẽ luôn luôn dựa vào các kết quả thống kê cao nhất, khả dĩ nhất để lấy quyết định.
Cũng trên đường đi tìm “bạo bệnh” củavua Quang Trung, chúng tôi đã phải tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu cao cấp của cácchuyênnghành trong Y khoa ngày nay. Chúng tôi cũng đã có cơ hội tiếp xúc được với nhiềuchuyên gia cao cấp, đi từ điạ hạtnộithầnkinh,ngoạithầnkinh qua Taimũihọng vànội thương cho đếntim học. Và cũng vì thế, chúng tôi đã có nhiều cơ hội tiếp nhận được những kinh nghiệm lâm sàng trực tiếp từ các vịchuyên gia hàng đầu trong các ngành.
Chúng tôi cũng sẽ thử “tái xây dựng” hồ sơ bệnh lý của Vua Quang Trung theo nguyên tắc “SOAP” của các hồ sơ bệnh lý y khoa ngày nay: “S” (Subjective) là các triệu chứng chủ quan tự cảm thấy của bệnh nhân (phần Bệnh sử), “O” (Objective) là các triệu chứng khách quan tìm thấy được trên người bệnh nhân (phần Triệu chứng), “A” (Assessment) là kết luận về bệnh trạng đã được suy diễn ra (phần Địnhbệnhphânbiệt “Differential Diagnosis” và phần Địnhbệnhlâmsàng “Clinical Điagnosis) và cuối cùng , “P” (Plan) là những quyết định thử nghiệm (Laboratory Tests) và điều trị (Treatment Plan) về căn bệnh đã được suy diễn ra đó.
II. Thử tái lập hồ sơ bệnh lý của vua Quang Trung:
Hồ sơ bệnh lý
Tên và họ: Nguyễn Huệ (tức Nguyễn Văn Huệ - vua Quang Trung)
Tuổi: 39
Giới tính: Nam
Nghề nghiệp: Chỉhuy Quân đội. Tánh xông xáo, thích hoạt động.
Bệnh sử (history of the present illiness):
A. Tư liệu chứng minh:
Trước hết chúng tôi đưa ra vài tư liệu dính dáng đển khởi điểm của bạo bệnh củanhàvua.
1/ Theo “ Đại NamThực Lục Chính Biên”, Tập II, Đệ Nhất Kỷ 1 (Tổ phiên dịch Viện Sử Học, Đào Duy Anh hiệu đính, tr. 159- 160): “…Tây Sơn Ngyễn Văn Huệ chết. Nguyễn Huệ ngồi chơi buổi chiều, bỗng mơ thấy một ông già tóc bạc từ trên không xuống, mặc áo trắng, tay cầm gậy sắt, chỉ vào Huệ mà bảo rằng “Ông cha mày sống trên đất vua, đời làm dân vua, mày sao dám vô lễ xâm phạm lăng tẩm?”. Rồi đánh vào trán một cái. Huệ ngất ngã ra. Tả hữu đều sợ. Giờ lâu mới tỉnh. Huệ đem việc đó nói vớiTrung thư Trần Văn Kỷ. Nhân đó, ốm không dậy được, dặn con là Quang Toản (lại tên nữa là Trát) rằng:“Ta sẽ chết đây! Thần kinh Phú Xuân không phải của mày có được. Nghệ An là đất của cha mẹ ta (Tổ tiên Huệ là người huyện Hưng Nguyên , khi Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế tiến lấy được bảy huyện Nghệ An, dời dân vào QuiNhơn), đất ấy là nơi hiểm yếu có thể trông cậy được. Ta đắp thành dày để làm kế Tấn Dương ngày khác cho mày. Sau khi ta chết, mày nên về đó. Nếu có biến cố còn có thể giữ được”.Rồi Huệ chết.
2/ Theo “ Đại Nam Chính Biên Liệt truyện”, phần “Ngụy Tây Liệt truyện : “Một hôm về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm tối tăm, kế thấy một ông già đầu bạc mặc áo trắng từ trên trời xuống, tay cầm gậy sắt mắng rằng “Ông cha ngươi sống ở đất các chúa, đời đời làm dân của chúa, ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm?” Rồi lấy gậy đánh vào trán, bất tỉnh nhân sự lâu lắm. Lúc tỉnh dậy, nhà vua đem chuyện ấy nói với quan Trung thư Trần Văn Kỷ. Từ đó bệnh chuyển nặng, mời quan Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó.Thương nghị chưa xong thì Thế tổ ta (tức vua Gia Long) đã lấy lại được Gia Định, chiếm Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, thanh thế chấn động. Quang Trung nghe được lo buồn, bệnh ngày càng kịch liệt”(2).
B. Bệnh sử qua các tư liệu đã dẫn:
Qua hai tài liệu trên, chúng ta có thể suy diễn được diễn tiến của bệnh trạng lúc khởi đầu như sau:
“Bệnh nhân là một người nam, mới39tuổi. Bệnh nhân đang ngồi chơi buổi chiều, không vận dụng sức lực hay làm việc gì nặng nhọc, bỗng cảm thấy xây xẩm tối tăm, đầu đau như có ai cầm gậy sắt đánh vào trước trán và té xuống liền hôn mê bất tỉnh. Sự việc xẩy ra rất đột ngột.Giờ lâu bệnh nhân mới tỉnh lại”.
Triệu chứng căn bệnh (signs and symptoms):
Xét theo bệnh sử, chúng ta có thể ngược dòng thời gian để suy nghiệm ra các triệu chứng của căn bệnh ban đầu của Vua Quang Trung. Chúng tôi đã có thể ghi nhận chín (9) yếu tố định bệnh quan trọng trong giai đoạn khởi đầu bệnh trạng của bệnh nhân là:
1/ “Bệnh nhân còn trẻ” , chỉ mới 40 tuổi.
2/ “Đau đầu dữ dội, đột ngột” (Headache Severe, Sudden Onset)
3/ “Hôn mêngất xỉu thình lình” (Sudden Loss of Consciousness, gọi tắt là L.O.C.).
4/ “Không vận động sức lực” khi xẫy ra biến cố (No Physical Exertion).
5/ “Không bị tổn thương trên đầu”, không bị va đập trên đầu trước đó (No Previous HeadTrauma History).
6/ “Bệnh nhân tỉnh lại : Bệnh nhân bị té xuống hôn mê bất tỉnh,“giờ lâu mới tỉnh” (Recovering from Consciousness after an Interval).
7/ “Bệnh nhânkhông bị hôn mê dài ngày” (No Coma of long duration).
Chẩn đoán phân biệt (differential diagnosis):
Dựa trên các yếu tố đó, chúng ta có thể suy diễn ra các điều khác để tìm bệnh. Chúng ta lấy triệu chứng “Bấttỉnh” (Loss of Consciousness) là triệu chứng quan trọng nhất của căn bệnh để làm điểm khởi đầu của lý luận định bệnh của chúng ta.
Trong từ ngữ Y khoa, “Bấttỉnhmêman” được gọi bằng từ ngữ chung là “Loss of Consciousness”, gọi tắt là “L.O.C.”. Nếu bất tỉnh nhẹ và tỉnh lại ngay liền, thì gọi là “Syncope”, nếu hôn mê nặng thì gọi là “Coma”.
Thông thường, khi bệnh sử có ghi “LOC” đột ngột mà trước đó không có dấu hiệu tổn thương nào trênnãosọ thì Y khoa ngày nay thường nghĩ ngay đến “nguyên nhân não bộ” và nhất là nghĩ ngay đến “tai biến mạch máu não” (Cerebro-Vascular Accident, gọi tắt là CVA), còn được gọi là “bệnh đột qụy” (Stroke). Hàng năm tại Hoa Kỳ có 730.000 trường hợp mới về “taibiếnmạchmáunão”.
Một LOC đột ngột thường do các nguyên nhân vềnãobộ như sau:
-5% là do Ubướu (Tumor) trênnão với các triệu chứng thần kinh suy sụp chậm rãi (Progressive Neurologic Deficit) trong 68% các ca, và cũng có yếu liệt về thần kinh vận động (Motor Weakness) trong 45% các ca và cónhức đầu (Headache) trong 54% các ca, độngkinh (26% các ca).
- 95% là do các mạch máu trênnão bị nghẽn hoặc bị vỡ gây ra xuất huyết, chia ra như sau:
- 80% là do nghẽn động mạch (Ischemic Stroke, Arterial Occlusion): vìmáu đôngtạichỗ (Thrombotic Stroke) trong 50% các cas và docụcmáu (Embolic Stroke) trong 30% các cas. Phân tách thêm, người ta thấy có 41% các casnghẽnmạch không biết lý do, 21% các cas ở các động mạch nhỏ, 11% các cas ở các động mạch lớn và 16% docụcmáu từtim đến (Cardiogenic Embolie) như trong bệnh “nhồimáucơtim” (M.I. Myocardial Infarction) hay trong “chứnghẹplỗvanhailá” (Mitral Stenosis) hay trong “chứngloạnnhịp” (Arrythmia).
- 20% là do xuất huyết trong não:
- 14% là do “xuấthuyết trongnãobộ” (IntraCerebral Hemorrhage, viết tắt là ICH)
- 6% là doxuấthuyết dướimàngnhện (Sub-Arachnoid Hemorrhage, viết tắt là SAH).
A/Nghẽn động mạch(Ischemia Stroke):thường bị “hôn mê sâu đậm” và thường xẫy ra cho người lớn tuổi, trên 50 tuổi…Triệu chứng khởi đầu cũng có thể thình lình nhưng “không có đau đầu”, không bị sốt. Bị yếu dần về thần kinh bắt đầu từ tay rồi lan ra các vùng khác,tăng lầntừ từ từng bước một, từ vài giờ cho đến vài ngày (24 giờ-72 giờ) và thường về một phía. Tay chân có thể bị yếu dần và bịliệttayliệtchân ở phía đối diện (Controlateral Hemiplegia) và cả tê tay tê chân. Thường là do “nghẹt đôngmạchnãogiữa (Middle Cerebral Artery).
B/Xuất huyết trong não bộ(Intracerebral Hemorrhage = ICH): 14% các cas bị hôn mê bất tỉnh (LOC) và thường được gọi là “Apoplexy” mà không có tổn thương do Va Đập nào trước đó. Bệnh nầy thường do “vỡ động mạch” trong khối chính củanão tạo thành “cụcmáu” còn gọi là “khối tụ máu” (Hematoma) đè ép lên trênnãobộ và gây nên các triệu chứng vềthần kinhnão bộ.Bệnh này thườngxảy ra ở người cao tuổi, phần lớn là đàn ông trên 55 tuổi và phần lớn do cao huyết áp (Hypertension). Càng lớn tuổi càng dễ bị bệnh này. Có thể do sự “vận độngsứclựcquátrớn” (Onset during Activity or Exertion) như khi đi đại tiện bị bón hay khi đang chơi thể thao như Tennis chẳng hạn. Bệnh nhân thường “bất tỉnh hoàn toàn” (Coma). Triệu chứngthầnkinhhỗnloạn trong “xuâthuyếtnão” thường xẫy ra tối đa ngay lập tức (Maximal at Onset) chứ không diễn tiến từ từ như trong bệnh “nghẽnmạchmáunão”. Nếu tỉnh dậy cũng sẽ có đau đầu, óimửa,chóngmặt ,bịliệt chân tay vàsuy sụp thần kinh từ từ (Neuro Deficit Progressive) và có thể bịcấmkhẩu không nói được, bị bệnhliệtmặt (liệt Dây thần kinh số 7), v.v…
C/Xuất huyết dưới màng nhện(Subarachnoid Hemorrhage = SAH):thường do sự bể vỡ của các động mạch bị nở phìng(Aneurysm) vàhoặc do các tật dị dạng động tĩnh mạch bẩm sinh(Congenital Arteriovenous Malformation)trong não dưới màng nhện. Bệnh này là “thường xảy ra ở “người trẻ khoảng 40 tuổi” (20% các cas từ 15 - 45 tuổi) và xảy ra “bất thình lình”(Sudden Onset) (30% các cas lúc đang ngủ) với các triệu chứng sau:1“Bất tỉnh”và có thể tỉnh trở lại“đau đầu đột ngột dữ dội” (Severe Headache) (30% bị đau đều về phía mạch máu bị vỡ); 2. “Bất tỉnh” ngay sau khi đau đầu đột ngột dữ dội.Bệnh nhân có thể tỉnh trở lại;3.Ói mửa (Nausea andVomiting);4.Chóng mặt (Dizziness), chóng mặt quay cuồng (Vertigo). 5.Cổ cứng (NuchalRigidity hayNeckStiffness);6.Tê nửa người (Hemiparesis);7.Liệt nửa người, còn gọi là “bán thân bất toại” (Hemiplegia).Ngoài ra cũng có thể còn có:8.Liệt nửa mặt (Facial palsy) do liệt dây thần kinh não số 7 (FacialNerve) một bên;9.Bệnh song thị (Diplopia) do liệt dây thần kinh não số 3 và “chứng sợ ánh sáng” (Photophobia);10.Hỗn loạn về chúc năng “nuốt” do hỗn loạn của các dây thần kinh não số 9 và số 10.
Thống kê ngày nay còn cho biết thêm các chi tiết sau: 50% các cas về “xuấthuyếtdướimàngnhện” đã có triệu chứng báo hiệu (Warning Symptoms), thường là từ 6 đến 20 ngày trước đó. Tra cứu các tư liệu Sử học còn lưu lại, chúng tôi cũng không thể xác định được trước đóvua Quang Trung có cảm thấy triệu chứng gì báo trước của bạo bệnh hay không, ví dụ như đau đầu, đaumặt,chóngmặt haytê taytê chân,yếu tayyếu chân haymắtmờ chẳng hạn.
Định bệnh (clinical assessment):
Xuyên qua triệu chứng của các bệnhxuấthuyếtmạchmáunão trong trường hợp bị “bất tỉnh đột ngột”và so sánh với các triệu chứng khởi đầu của căn bệnh củavua Quang Trung qua các tư liệu đã nêu ra, chúng ta thấy căn bệnh lúc ban đầu củavua Quang Trung trong quá khứ, rất có thể là:
“Bệnh xuất huyết não dưới màng nhện”
(Subarachnoid Hemorrhage)
Diễn tiến bệnh trạng (progress notes):
![]() |
Bảo tàng Quang Trung ở Bình Định |
A/ Bài “ Aitưvãn” của Ngọc Hân Công Chúa làm vào lúcnhàvua qua đời đã cho ta thêm đôi chút ánh sáng về bệnh tật của Vua trong thời gian này:
Từ nắng hạ mùa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên
Xiếtbao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã thỉnh, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Qua bài “ Aitưvãn” này, ta có thể rút ra thêm được các kết luận sau đây liên quan đến bệnh trạng củanhàvua:
1/“Từnắng hạ mưa thu trái tiết”: Vua đau từ mùa hạ đến mùa thu mới mất.
Khoảng thời gian có lẽ làtrên hai thángtừ lúc phát bệnh đến giờ lâm chung.
2/“Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên”: Vua day trở trên giường bệnh. Ykhoa ngày nay gọi là“chứng bồn chồn” (Restless), không thể nằm yên mà phải nhúc nhích qua lại. Đó là chưa nói đến những dư chứng thông thường của bệnh “xuấthuyếtnão” với những cơn động kinh(Seizures),co giật(Convulsions) cũng như nhữngcử động rung cơ(Tremblements), không kiểm soát được của tay chân.
Tất cả đều khiến cho “mìnhrồng mỏi mệt chẳng yên” tức là di chứng “bồn chồn” (RESTLESS) do suy yếu thần kinh của căn bệnh “xuấthuyếtnão đướimàngnhện”
Câu hỏi được nêu tiếp theo là những “dư chứng” nào khác còn hiện diện trên cơ thể con người củanhàvua sau cơn bạo bệnh?
B/ “ Đại Namthựclụcchínhbiên” cho ta biết qua tình hình chung sau khivua ngã bệnh: “…Huệ ngất ngã ra. Tả hữu đều sợ. Giờ lâu mới tỉnh. Huệ đem việc đó nói với trung thư Trần Văn Kỷ.Nhân đó ốm không dậy được,dặn con là Quang Toản …”.
Qua câu nầy của “ Đại Namthựclụcchính biên” thì sau khi bị cơn bệnh thình lình,vua đã “không thể nào dậy được”. Nhàvua đứng dậy không được có thể là do bệnhliệtbạitaychân, tức là bệnh “bán thân bất toại” (Hemiplegia) hay bị bệnh “chóng mặt quay cuồng” (Vertigo), và cũng có thể do cả hai bệnh chứng đó cùng xảy ra một lúc và đã làm chonhàvua không thể nào đứng lên và bước đi ra ngoài được mà phải nằm suốt trên giường bệnh.
1/ “bán thân bất toại” tứcliệttaychân về một phía (Hemiplegia hay Hemiparalysis) và cả “không cảm giác về một bên thân” (Hemiparesis) đều là những di chứng thường tình củabệnhxuấthuyếttrongnãobộ (Intracerebral Hemorrhage) do rối loạn hệ thần kinh vận động và cảm giác.
2/ “Xây xẩm mặt mày”, “đứng lên bổ xuống”, “chóng mặt quay cuồng” đều là những di chứng thường đi theo với căn bệnh “xuấthuyếttrongnão” hay “xuấthuyết dướimàngnhện”. “xâyxẩmmặtmày” (Dizziness) nhẹ hơn “chóngmặtquaycuồng” (Vertigo). Chính cái “chóngmặtquaycuồng”“Vertigo”này mà người xưa khi nói về căn bệnh củavua Quang Trung cũng đã nhắc nhở đến và đã gọi đó là “bênh Huyết vựng” hay “Huyễn vựng” hay “Huyết vận” như tác giả Hoa Bằng đã có ghi ra. Trong bệnh “Vertigo”, người bệnh thấy nhà cửa quay cuồng, bàn ghế quay cuồng, đứng không thể nào vững và thường ngã xuống và đầu có thể va đập vào bàn ghế gây thêm tổn thươngnão.
3/“Óimửa”: Bệnh “chóng mặt” hay “huyễnvựng” này thông thường “đi đôi sát nút” với triệu chứng “óimửa”, thứ “óimửa” mà người Huế gọi là “nhào đựng nhào đột”, hay thứ “mửa ra mật xanh mật vàng” mà từ ngữ Y khoa ngày nay gọi là “Vomiting”. Nhẹ nhất là “buồn nôn”, “buồn ói” hay “muốnmửa” , từ ngữ Y khoa gọi là “Nausea”. Nặng nhất là “mửa” (Vomiting). Mỗi khi mửa, “ăn bao nhiêu ra bấy nhiêu”. Hễ mỗi khi có sự chuyển động của đầu hay thân hình là có “Nausea” hay “Vomiting” ngay lập tức. Thông thường trong căn bệnh “xuất huyếtnão,xuấthuyếtdướimàngnhện” thường có “Nausea” và “Vomiting” đi song đôi với nhau. Hễ đứng lên ngồi xuống là sinh ra “chóng mặt quay cuồng” ngay và sẽ “ói mửa lộn nhào”, không thể nào đứng dậy hay ngồi dậy để làm việc gì được. Vua Quang Trung có thể đã phải chịu đựng những cơn hành hạ của “chóngmặt, óimửa” như đã trình bày ở đây và vì vậy mà Ngọc Hân Công Chuá đã phải chạy khắp nơi để tìmthầy chạy thuốc chữa bệnh chovua.
4/“Nhức đầu như búa bổ”: Triệu chứng nhức đầu cấp tính khi xẫy rataibiếnmạchmáunão củavua Quang Trung đã xẫy ra “thình lình” đúng như sách vở ngày nay đã ghi nhận. Vua QuangTrung đã bị đau đầu dữ dội, “như có ai lấy gậy sắt đập vào đầu”. Sau khi tỉnh lại, các bệnh nhân của “xuấthuyếtnão” và nhất là “xuấthuyếtdướimàngnhện” nhưvua cũng vẫn thường vẫn bị những cơn đau đầu ghê gớm hành hạ do sự đè nén (Mass Effect) của khối máu đọng trênnãobộ. Khi lên cơn đau đầu đó, có người đã phải ôm đầu mà rên la. Và đó cũng là một di chứng của căn bệnh xuất huyếtnão củanhàvua.
5/ “Nuốt khó”: Nếu bệnh nhân đã bị hư một bán cầunão thì rất có thể bệnh nhân đã có triệu chứng “nuốt khó”, “nuốt sặc” do triệu hỗn loạn về “chứcnăngnuốt”. Đồ ăn sở dĩ nuốt được là nhờ hoạt động của các cơ co bóp củathực quản dưới sự tác dụng của các dâythầnkinhnãobộ số 9 và số 10. Khinãobộ một phía bị hư thì hoạt động của các dây thần kinh của chức năngnuốt về phía đó cũng sẽ bị tê liệt và vì vậy sẽ phát sinh các rối loạn vềnuốt. Bệnh nhân sẽ bị “khó nuốt” và thường bị “nuốtsặc” do đồ ăn đi “lạc đường” (“Fausse Route”) vào khí quản, gây nên phản ứngsặc là phản ứng tự vệ thông thường. Nếu rối loạnnuốt khá nặng thì bệnh nhân có thể nuốt hít đồ ăn vào trong “cuống phổi” tức vào trongkhíquản , và sẽ gây nên “viêmphổihít” (Aspiration Pneumonia), nguy hại đến tính mạng.
Nói tóm lại, theo dõi bệnh tật củavua, chúng ta có thể nhận thấy những dư chứng của căn bệnh củavua trong những ngày trước khi lâm chung có thể là:
1/Bại liệt nửa người(Hemiplegia)
2/ Óimửa(Nausea, Vomiting)
3/Chóng mặt(Dizziness, Vertigo)
4/ Đau đầu(Headache)
5/Cứng cổ, đau cổ(Meningismus)
6/ Động kinh(Seizures)
7/Co giật(Convulsions)
8/Chứng bồn chồn(Restlessness)
9/Nuốt khó, nuốt sặc(Swallowing Problems)
10/Thị trường khiếm khuyết(Visual Defect) (Có thể)
Điều trị (treatment plan):
Trong bàiAi tư vãn,Ngọc Hân Công Chúa đã viết:
“Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Chính Ngọc Hân công chúa, vợ vua Quang Trung, đã cho chúng ta biết là ngoài chuyện cầu khấn các đấngthầnlinh ở cácammiếu linh thiêng để cầu nguyện chonhàvua,bà cũng đã phải bôn ba mời Thầy tìm thuốc khắp nơi để chữa cho Vua trong ngay sau cơn bạo bệnh hòng mong bệnh tình Nhà Vua thay đổi, trở lại lành mạnh như cũ.
Trong vấn đề chữa trị chonhàvua, chúng tôi nghĩ là chứng bại liệt nửa thân khó lòng chữa chạy, bất cứ thầy thuốc nào, đông haytây, cũng đều biết thế. Nếu có thể dùng thuốc để chữa chạy chonhàvua là chữa chạy các chứng như: óimửa,chóngmặt, đau đầu vàchứng độngkinh,cogiật chẳng hạn. Ngay chuyện đút chovua ăn chắc các gia nhân lúc đó cũng đã phải rất cẩn thận , phải đút chậm chậm từ từ để khỏi gây ra “chứngsặc”.
III Tiên lượng bệnh trạng (prognosis):
Đại Namthựclụcchínhbiênvà ĐạiNamchínhbiênliệt truyệncòn cho ta biết là sau khi bị bạo bệnh,nhàvua đãtrối trăndặn dòthái tử Quang Toản về đường hướng phải làm trong tương lai. Vua cũng cho vời Trungthư Trần Văn Kỷ và cả Trấn Thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về Phú Xuân để bàn bạc chuyện dời đô ra Nghệ An. Vua Quang Trung còn trối trăn căn dặn kỹ càng Trần Quang Diệu và triều đình: “Sau khi ta mất, phải trong một tháng lo chôn cất sơ sài cho xong việc mà thôi. Các ngươi phải phò Thái tử sớm ra Nghệ An để khống chế thiên hạ. Nếu không, bị quân Gia Định kéo ra, các ngươi không còn chỗ chôn đấy”. Trong “Lê Qúy Dật Sử” mà nhiều người cho là của Bùi Dương Lịch viết vào thời Tây Sơn, còn cho thêm chi tiết khác “Tuân di lệnh củavua cha, để tang ngắn ngày, ba tháng là thôi mặc áo tang, sai sứ sang báo tang với nhà Thanh”.
Như vậy ta có thể suy ra hai điều về tình trạng của hệ thống thần kinh củavua mà Y khoa Pháp gọi là “Bilan Neurologique” và Y khoa Mỹ gọi là “Neurological Status” như sau:
1/ Nhàvua còn đủ óc phê phán, suy tính đường lợi hại,trí thông minh củavua vẫn còn tồn tại. Trungtâm của thông minh, củasuynghĩ vàlýluận là ởvùngtrán. Như vậynãobộvùngtrán củavua vẫn còn hoạt động.
2/ Nhà Vua vẫn còn năng khiếungônngữ (Speech,Language) để trối trăn, nói chuyện và bàn luận với quần thần. Như vậy, Trungtâm vềngônngữ củavua vẫn còn hoạt động. Trung tâm vềngônngữ thường ở bên phiátráicủa người thuận dùng tay phải (95%) và như vậy ta có thểphỏng đoánphíanão bêntráicủanhàvua vẫn hoạt động bình thường.
3/ Và vì vậy, chúng ta có thể suy ra, phía bên chảy máunão củavua Quang Trung là phíaPhảivà tử đó, có thể suy ra thêm làvua bị bệnhbán thân bất toại bên tráivà tay chân phía bênphảicó thể đang hoạt động bình thường. Lý do là vì các dây thần kinh vận động tay chân từnãobộ bêntráicòn tốt phải chạytréo quaphía bênphảikhi chạy xuống phía dướitủysống. Nếunhàvua muốn cầm tay các
cận thần mà dặn dò trối trăn thì có thểnhàvua vào hồi đó đã phải dùng tayphảiđể cầm tay của kẻ cận thần đó.
Cũng cần biết, theo thống kê ngày nay, thìtiên lượngvề bệnh “xuấthuyếtnão dướimàngnhện” đã được đánh giá như sau: 30% chết ngay trong 30 ngày đầu, 30% các cas sẽ hồi phục với di chứng tàn tật nặng nhẹ khác nhau và và 50% các cas sẽ chết (vì trận xuất huyết lần đầu hay do xuất huyết tái phát).
Nguồn: Xưa & Nay, số 309, 6 - 2008, tr 32