Nguồn nước sông Nhuệ, sông Đáy đang suy giảm chất lượng
Nguồn nước sông Nhuệ, sông Đáy ô nhiễm nghiêm trọng
Sông Nhuệ là con sông đào dài khoảng 74km, bắt nguồn từ cống Liên Mạc, Từ Liêm, Hà Nội chảy theo hướng Bắc - Nam và nhập với sông Đáy tại TP Phủ Lý. Đây là con sông phục vụ tiêu thoát nước cho sản xuất nông nghiệp của một số huyện phía Nam TP. Hà Nội và phía Bắc tỉnh Hà Nam .
Trong thời gian qua, nước thải Hà Nội tiếp tục đổ về sông Nhuệ làm cho tình hình ô nhiễm càng trở nên trầm trọng. Qua khảo sát cho thấy, toàn bộ tuyến sông Nhuệ, sông Châu tại Duy Tiên trên địa bàn tỉnh Hà Nam đang bị ô nhiễm nặng, nước sông có màu đen bốc mùi hôi thối, ảnh hưởng rất lớn tới việc cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của người dân ở ven sông.
Theo kết quả quan trắc phân tích của Trung tâm Quan trắc phân tích TN&MT cho thấy, ô nhiễm chính là chất hữu cơ, chất dinh dưỡng và tổng coliform: Hàm lượng COD cao gấp 3,53 lần; Ôxy hòa tan là 1,78 mg/l nhỏ hơn 3,37 lần so với giới hạn cho phép loại A1 theo QCVN 08/2008/BTNMT (nước dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt); Amoni cao gấp 120,5 lần giá trị cho phép theo loại A2 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt QCVN 08:2008/BTNMT (nước dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng phải áp dụng công nghệ xử lý phù hợp, bảo tồn động vật thủy sinh). Như vậy, nguồn nước sông Nhuệ hiện đã bị ô nhiễm báo động cấp 3 theo quy định BVMT của tỉnh.
Sông Đáy bị ô nhiễm cục bộ với mức độ ngày càng gia tăng, đặc biệt nước sông lại chịu ảnh hưởng của ô nhiễm sông Nhuệ. Từ thị xã Hà Đông (Hà Nội) đến thị xã Phủ Lý (Hà Nam ), nước sông Đáy chủ yếu bị ô nhiễm hữu cơ ở từng đoạn sông với các mức độ khác nhau. Các thông số đặc trưng cho ô nhiễm hữu cơ đều vượt QCVN 08/2008, loại A2.
Tại cầu Hồng Phú (Phủ Lý, Hà Nam - hợp lưu của sông Nhuệ - Đáy và sông Châu Giang), nước sông bị ô nhiễm hữu cơ tương đối cao, nhất là vào mùa khô. Các thông số như BOD5, COD, các hợp chất Nitơ và Coltform đều không đạt QCVN 08/2008, loại A2.
Từ thị xã Phủ Lý đến điểm hợp lưu của sông Hoàng Long đổ vào sông Đáy (của Gián Khẩu - Gia Viễn - Ninh Bình): Ngoài ảnh hưởng của nước sông Nhuệ, đoạn này còn chịu ảnh hưởng bởi nước thải sinh hoạt và sản xuất công nghiệp của thị xã Phủ Lý dồn xuống nên nước sông bị ô nhiễm khá nghiêm trọng (BOD5 vượt QCVN 08/2008, loại A2 từ 2 đến 3 lần).
Đoạn từ Gia Viễn đến Kim Sơn (Ninh Bình) nước sông bị ô nhiễm hữu cơ. Một số thông số không đạt QCVN 08/2008, loại A2 (BOD5 vượt 2 - 3 lần), thậm chí một số đoạn không đạt tiêu chuẩn B1.
Hạ lưu sông Đáy (từ Kim Sơn - Ninh Bình ra cửa Đáy): Do ảnh hưởng của nguồn thải từ hai bên sông nên chất lượng nước ở hạ lưu sông Đáy vẫn không được cải thiện nhiều so với các đoạn trên: Các thông số thể hiện mức độ ô nhiễm vẫn không đạt QCVN 08/2008 loại A2, dù một số nơi đã đạt tiêu chuẩn loại B1.
Người dân các xã ven sông có tỷ lệ mắc bệnh cao
Cũng như nhiều địa phương khác của Việt Nam, nguồn nước cấp cho mục đích sinh hoạt của tỉnh Hà Nam bao gồm từ 2 nguồn chính: Nước mặt và nước ngầm. Hiện trạng khai thác và sử dụng tài nguyên nước mặt phục vụ mục đích sinh hoạt của tỉnh Hà Nam theo khu vực bao gồm:
Vùng phía Tây sông Đáy
Đất dân cư chiếm tỷ lệ nhỏ, lại nằm rải rác trên những vùng đồi việc khai thác, cấp nước tập trung sẽ khó khăn hơn so với những vùng khác. Hiện nay, thực trạng nguồn nước cấp tại khu vực này còn nhiều hạn chế, đa số các hộ dân sử dụng trực tiếp các nguồn nước từ giếng đào, giếng khoan (trừ thị trấn Kiện Khê được sử dụng nguồn nước tập trung). Tại những khu dân cư sinh sống trên vùng đồi, núi (phát triển kinh tế trang trại nông - lâm kết hợp) rất thiếu nước - nguyên nhân chủ yếu do chưa có hệ thống cấp nước đến các hộ dân, mặt khác khả năng tự khai thác nguồn nước ngầm phục vụ cho sản xuất gặp hạn chế do giá thành khoan giếng cao, nước ngầm ở tầng sâu.
Khu đồng bằng phía Đông sông Đáy.
Hiện tại, chỉ có hai khu vực thuộc thị trấn Bình Mỹ và thị trấn Vĩnh Trụ có nguồn cấp nước tập trung. Còn các vùng thuộc nông thôn vẫn chưa có hệ thống nước máy - người dân vẫn phải tìm cách khai thác nước sinh hoạt thông qua nguồn nước ngầm tầng nông (giếng khoan, giếng đào) hoặc nước mặt. Đây là vùng trũng nên việc khai thác nước cho mục đích sinh hoạt vào mùa mưa gặp khó khăn hơn. Nguyên nhân tại vùng trũng, khả năng tiêu thoát nước rất khó thực hiện nên nước tại vùng này không được lưu thông - chính vì vậy sẽ tăng phát triển dịch bệnh thông qua nước.
Thực tế cho thấy, nguồn nước mặt, trong đó chủ yếu là nước sông Đáy và một phần từ nước sông Nhuệ được sử dụng làm nguồn nước cấp sinh hoạt cho nhân dân tỉnh Hà Nam . Tỷ lệ số người dân sử dụng nước mặt cho mục đích sinh hoạt, trung bình chiếm 56,4% tổng số nguồn nước cấp sinh hoạt trong tỉnh. Số dân còn lại trong tỉnh: 43,6% sử dụng nguồn nước dưới đất, nước mưa vào mục đích sinh hoạt.
Kết quả đánh giá về hiện trạng nguồn nước hợp vệ sinh sử dụng nước sinh hoạt của người dân tỉnh Hà Nam được Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Hà Nam tổng kết cho thấy, các loại bệnh người dân mắc phải liên quan đến nguồn nước ô nhiễm gây nên như bệnh đường tiêu hóa ( viêm nhiễm, tiêu chảy…), bệnh ngoài da, bệnh phụ khoa,… Qua những số liệu về một số bệnh có liên quan đến chất lượng nước bị ô nhiễm có thể nhận thấy, tại các xã ven sông thường có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn so với các xã không chịu ảnh hưởng của nước sông, đặc biệt là các bệnh như da liễu, phụ khoa, tiêu chảy…
Biện pháp bảo vệ
Tại hội nghị lần thứ hai Ủy ban BVMT lưu vực Sông Nhuệ - Đáy, ông Nguyễn Thế Thảo - Chủ tịch UBND TP. Hà Nội, Chủ tịch Ủy ban BVMT lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy cho biết, kể từ khi ủy ban thành lập đến nay, các tỉnh, thành phố đã ban hành quy chế để BVMT lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy chảy qua địa bàn địa phương mình; ủy ban BVMT lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy đã phối hợp với các tỉnh thành phố và các bộ, ngành hữu quan tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý đối với các cơ sở vi phạm; thường xuyên có đánh giá tác động ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và đời sống của nhân dân trong lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy. Qua thanh, kiểm tra đã xử lý hàng trăm cơ sở, hàng chục cụm công nghiệp vi phạm. Ngăn chặn được sự gia tăng ô nhiễm môi trường, từng bước bảo vệ cảnh quan, sinh thái môi trường nước lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như công tác thanh tra, kiểm tra mới chỉ dừng lại ở việc phát hiện vi phạm, xử lý vi phạm chưa triệt để. Kinh phí đầu tư cho công tác BVMT tại các địa phương chủ yếu lấy từ nguồn 1% ngân sách còn dàn trải, kém hiệu quả và còn sai mục đích sử dụng.
Trong thời gian tới Ủy ban sẽ tập trung vào các vấn đề như: Khẩn trương thành lập ban chỉ đạo thực hiện đề án; xây dựng tổ chức thực hiện kế hoạch đề án tổng thể lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy trên địa bàn địa phương mình; xây dựng các chương trình, dự án thuộc các đề án BVMT lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015. Theo đó, trong giai đoạn tới các bộ, ngành sẽ tập trung triển khai xây dựng quy hoạch BVMT lưu vực sông Nhuệ - Đáy tới năm 2015; quy hoạch bãi chôn lấp chất thải rắn và hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt trên toàn lưu vực; có kế hoạch nạo vét, chỉnh trang, nâng cấp sửa chữa hệ thống đê, cống, trạm bơm trên lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy.








