Nguồn nhân lực điện hạt nhân – Nhìn từ các nước phát triển
Pháp: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Năm 1945, Pháp thành lập Cơ quan NLNT (CEA) phục vụ cho việc nghiên cứu, phát triển và đào tạo nhân lực ĐHN của nước này. Đến năm 1956, Pháp chính thức triển khai chương trình phát triển năng lượng hạt nhân. Theo đó, Viện khoa học và kỹ thuật nguyên tử quốc gia trực thuộc CEA được thành lập để đào tạo các kỹ sư và các nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn mà các trường đại học chưa có. Năm 2008, Chính phủ Pháp thành lập Ủy ban điều phối đào tạo khoa học, kỹ thuật hạt nhân với chức năng khớp nối cung-cầu. Ủy ban này họp một năm hai lần với sự tham dự của các tập đoàn công nghiệp lớn trên thế giới và các cơ sở đào tạo trong nước, các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành quốc gia. Nhiệm vụ của Ủy ban là tìm hiểu nhu cầu nhân lực của các cơ sở NLNT và năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo; thiết lập mối quan hệ đối tác giữa đào tạo và công nghiệp; triển khai hình thức đào tạo mới và đào tạo đội ngũ giáo viên; tuyên truyền về NLNT nhằm thu hút sinh viên, nâng cao chế độ đãi ngộ, tìm nguồn tài chính làm học bổng cho sinh viên.
Pháp hiện có khoảng 20 cơ sở đào tạo chuyên ngành liên quan đến ĐHN, với 23 chương trình đào tạo dài hạn và 44 chương trình đào tạo ngắn hạn. Pháp là quốc gia có nền giáo dục có bề dày thời gian và kinh nghiệm, đo đó, các các cơ sở đào tạo chuyên ngành liên quan đến ĐHN cũng được tiếp cận khá nhanh chóng những kinh nghiệm này. Năm 2009 một số trường đại học ở Pháp đã chủ động phối hợp với các cơ sở công nghiệp ĐHN xúc tiến chương trình đào tạo thạc sỹ quốc tế về NLNT (thời gian học 2 năm). Năm 2010 nước này thành lập Viện NLNT quốc tế để thu hút sinh viên nước ngoài. Trong 10 năm tới, Pháp dự kiến đào tạo khoảng 25.000 người cho ngành NLNT (2.500 người/năm). Trong đó có 100 tiến sĩ cho các cơ quan quản lý; 1.400 kỹ sư (học 5 năm, tương đương thạc sĩ) và 1.000 công nhân kỹ thuật (hệ 3 năm).
Nga: Phối hợp chặt chẽ nghiên cứu cơ bản với đào tạo chuyên sâu
Từ khi thành lập và phát triển đến nay (hơn 65 năm), ngành CNHN của Liên bang Nga luôn nhận được sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của lãnh đạo cấp cao Liên bang Nga. Ngày 7/10/2008, Tổng thống Nga đã ký Sắc lệnh số 1448 “Về hiện thực hóa Dự án thử nghiệm thành lập các trường đại học tổng hơp quốc gia làm công tác nghiên cứu khoa học”, trong đó có dự án thành lập Trường Đại học tổng hợp quốc gia nghiên cứu hạt nhân. Để triển khai thực hiện, mỗi năm Chính phủ và Tập đoàn năng lượng hạt nhân quốc gia Nga (Rosatom) bảo đảm khoảng 800 triệu rúp (26,7 triệu USD) cho Nhà trường (Chính phủ đảm bảo 50%, còn lại do Rosatom đóng góp).
Để phát triển các ngành khoa học ứng dụng, nhất là ứng dụng sản xuất ĐHN, Nga chú trọng đi sâu phát triển nghiên cứu các bộ môn khoa học cơ bản (vật lý lý thuyết, vật lý lượng tử, toán-vật lý…), đồng thời ưu tiên phát triển các cơ sở đào tạo, nghiên cứu chất lượng cao. Theo thống kê, hiện nay Liên bang Nga có hơn 20 trường đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Khoa học chuyên đào tạo các ngành nghề liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, thiết kế, vận hành, sử dụng nhà máy ĐHN. Đứng đầu là các trường đại học kỹ thuật Matxcơva và Trường Đại học năng lượng Matxcơva. Ngoài ra, còn có 7 chi nhánh cùng các trường đại học khác. Hệ đào tạo trung cấp có 18 trường. Tập đoàn Rosatom liên kết với Bộ Giáo dục và Khoa học Nga trong công tác soạn thảo, thống nhất chương trình giảng dạy, mở các bộ môn mới, xác định chỉ tiêu đào tạo, tiếp nhận sinh viên tốt nghiệp, hỗ trợ vất chất cho các trường đại học…
Hàn Quốc: Gắn đào tạo lý thuyết với thực hành
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công đối với dự án ĐHN đầu tiên ở Hàn Quốc là chủ trương tự chủ tạo nguồn nhân lực. Họ cho rằng: “Nếu không có nguồn nhân lực thì không thể xây dựng được nhà máy ĐHN”, đồng thời, để có được nguồn nhân lực giỏi về chuyên môn Hàn Quốc tuyển chọn các kỹ sư trẻ gửi đi đào tạo ở các nước có nền công nghiệp ĐHN tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nhật Bản. Sau khi kết thúc khóa học, họ được chuyển đến các công trường xây dựng nhà máy ĐHN để tích lũy kinh nghiệm thực hiện các dự án. Hàn Quốc coi đây là điểm quan trọng đảm bảo thành công cho chương trình tự chủ về công nghệ xây dựng nhà máy ĐHN.
Việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho dự án ĐHN đầu tiên ở Hàn Quốc được thực hiện cả trong nước và nước ngoài. Sau khi được chỉ định là chủ sở hữu, Dự án ĐHN Hàn Quốc (KEPCO) đã chủ động đưa người đi đào tạo tại các cơ sở hạt nhân trong nước. Trong 10 năm đã có khoảng 670 người tham dự khóa học kiểu này. Ngoài ra, KEPCO còn tổ chức các lần thi tuyển để tuyển dụng các kỹ sư trẻ đã được đào tạo về hạt nhân tại các trường đại học để bổ sung nhân lực cho ban quản lý dự án. Việc đào tạo ở nước ngoài được thực hiện thông quan các hợp đồng thương mại với nhà thầu chính. Số lượng được đào tạo gần 300 người, chủ yếu là các lĩnh vực vận hành, kỹ thuật, xây dựng…
Nhật Bản: Đào tạo lại sau khi đã được đào tạo chuyên sâu
Hội đồng phát triển nguồn nhân lực ĐHN Nhật Bản được Chính phủ nước này giao trách nhiệm hoạch định chiến lược phát triển trung và dài hạn nguồn nhân lực cho ngành ĐHN. Việc quy hoạch, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ĐHN ở Nhật Bản được kết hợp chặt chẽ giữa 4 tổ chức chính: 1) Các cơ quan hoạch định chính sách, quản lý và giám sát; 2) Các trường đại học có chuyên ngành đào tạo về NLNT và ĐHN; 3) Ngành công nghiệp hạt nhân; 4) Cơ quan nghiên cứu phát triển NLNT.
Tại Nhật Bản, hàng năm có khoảng 700-800 sinh viên đại học tốt nghiệp ngành ĐHN, trong đó có 200-300 người được tuyển chọn tiếp tục đào tạo ở cấp cao hơn (thạc sĩ, tiến sĩ), số còn lại bố trí làm việc tại các nhà máy ĐHN và cơ sở nghiên cứu NLNT. Công tác phát triển nguồn nhân lực ở các nghiên cứu chuyên sâu được thực hiện ở các viện nghiên cứu, trong đó, Cơ quan Nghiên cứu trung tâm về công nghiệp điện lực Nhật Bản là đơn vị chính thực hiện nhiệm vụ này.
Trung tâm Đào tạo năng lượng hạt nhân Nhật Bản (NTC) là cơ sở đào tạo nhân lực chính quy và lớn nhất tại Nhật Bản, và là cơ quan duy nhất có quyền cấp giấy phép hành nghề cho tất cả các thành viên làm việc trong nhà máy ĐHN (từ nhân viên vận hành cho đến giám đốc điều hành). Sinh viên đại học tốt nghiệp chuyên ngành ĐHN chỉ được hành nghề sau khi hoàn thành khóa huấn luyện do NTC tổ chức.
Đối với nhân viên vận hành nhà máy ĐHN: chương trình đào tạo gồm những nội dung sát với công việc của nhân viên vận hành. Tổ chức thành 5 khóa đào tạo: cơ bản, thường xuyên, nhóm, nhân viên vận hành tuốc bin và theo yêu cầu.
Khóa đào tạo cơ bản thời gian kéo dài 20 tuần, nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về các lò phản ứng hạt nhân, các trang thiết bị của nhà máy ĐHN và thực hành. Trong đó đào tạo lý thuyết theo 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 (6 tuần) học các nguyên lý cơ bản về lò phản ứng hạt nhân; giai đoạn 2 (6 tuần), học về các hệ thống vận hành và cấu tạo của hệ thống kiểm soát, an toàn của nhà máy ĐHN; giai đoạn 3 (8 tuần) học trên mô hình mô phỏng phòng vận hành nhà máy ĐHN (học các kỹ năng cần thiết để vận hành nhà máy ĐHN trong các điều kiện bình thường, bất bình thường và khẩn cấp). Nội dung thực hành gồm: khởi động và dừng hoạt động nhà máy; xử lý tình huống khí các thiết bị hoạt động bất thường và xử lý khi xảy ra tình huống khẩn cấp( có khoảng 150 loại tình huống bất thường và khẩn cấp).
Khóa đào tạo thường xuyên: Theo quy định của Nhật Bản, các nhân viên vận hành, từ nhân viên mới đến giám đốc phải tham gia khóa đào tạo này ít nhất 1 lần/năm. Nội dung đào tạo đáp ứng các yêu cầu khác nhau cho từng đối tượng: Đối với nhân viên mới, học từ 7-10 ngày, giúp các nhân viên vận hành làm quen với công việc trong điều kiện hoạt động bình thường, bất thường và trong tình huống khẩn cấp; vận hành viên cao cấp (đã có thâm niên trong nghề) học trong 5 ngày nhằm cập nhật, bổ sung kiến thức và kỹ năng vận hành trong các điều kiện bình thường, bất bình thường và trong tình huống khẩn cấp. Nội dung đào tạo cho giám sát viên trong thời gian 5 ngày nhằm nâng cao khả năng đánh giá, phán đoán tình huống, sự cố có thể nảy sinh trong các điều kiện bình thường, bất bình thường và trong tình huống khẩn cấp; kiểm tra, sát hạch năng lực các giám sát viên để gia hạn giấy phép hành nghề học trong 5 ngày; kiểm tra trình độ của các nhà quản lý học trong 9 ngày nhằm kiểm tra năng lực làm việc của giám đốc điều hành.
Kháo đào tạo nhóm kéo dài từ 1-2 ngày, nhằm nâng cao khả năng làm việc theo các nhóm của tất cả các nhân viên làm việc trong một ca tại nhà máy ĐHN. Các học viên được đào tạo với mô hình mô phỏng ca làm việc tại nhà máy ĐHN, trong đó tập trung thực hành các bước xử lý tình huống trong điều kiện bất thường tại các nhà máy ĐHN.
Khóa đào tạo nhân viên vận hành tuốc bin kéo dài 3 ngày, nhằm nâng cao kỹ năng của các nhân viên vận hành tuốc bin. Học viên được hướng dẫn thực hành với mô hình mô tả chính xác phòng điều khiển tuốc bin của nhà máy nơi họ làm việc.
Khóa đào tạo theo yêu cầu từ 2-10 ngày, nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng khác nhau cho đội ngũ kỹ sư làm việc tại nhà máy ĐHN, các kỹ sư của các nhà sản xuất và các đối tượng theo yêu cầu của khách hàng, kể cả người nước ngoài.
Đối với nhân viên bảo dưỡng kỹ thuật, do cơ sở đào tạo trực thuộc các công ty điện lực thực hiện. Đối tượng đào tạo là các nhân viên bảo dưỡng kỹ thuật trong các nhà máy ĐHN, thuộc quyền quản lý của của công ty điện lực. Giáo viên hướng dẫn có thể là chuyên nghiệp hoặc trưng tập nhân viên xuất sắc của công ty. Nội dung đào tạo klys thuyết sát với công việc hàng ngày, nhằm đảm bảo cho các nhân viên bảo dưỡng kỹ thuật tiến hành công việc thành thạo trong điều kiện phóng xạ cao. Đào tạo thực hành được tiến hành trên mô hình mô phỏng chính xác một số bộ phận chính của nhà máy ĐHN (nắp đậy lò phản ứng hạt nhân, buồng tạo hơi nước, tuốc bin, động cơ, hệ thống hãm, kiểm soát, an toàn lò phản ứng hạt nhân…). Chương trình đào tạo bao gồm những kiến thức chung áp dụng cho tất cả các đối tượng (nhân viên mới, nhân viên bình thường, chuyên viên cao cấp, giám sát viên và giám đốc). Riêng bảo dưỡng kỹ thuật chỉ áp dụng đối với nhân viên mới và nhân viên bình thường, chia thành 3 công việc chính( bảo dưỡng hệ thống cơ khí, bảo dưỡng hệ thống điện, bảo dưỡng hệ thống kiểm soát).
Khuyến nghị và kinh nghiệm
Việt Nam cũng như các quốc gia khác khi bắt đầu xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên đều còn thiếu kinh nghiệm về mọi mặt, trong đó có kinh nghiệm về quy hoạch, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ĐHN. Mỗi quốc gia tuy có những nét riêng về hình thức, nội dung, mô hình đào tạo nhân lực cho ĐHN, nhưng đều sớm coi trọng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho nhà máy ĐHN đầu tiên cũng như phát triển NLNT lâu dài với đa dạng hóa các loại hình đào tạo; gắn đào tạo, nghiên cứu với thực tế phát triển của NLNT, ĐHN và có các chính sách hợp lý để thu hút, giữ người lao động trong ngành ĐHN. Tuy chưa có mô hình chuẩn nhưng chuyên gia ĐHN một số nước đã có những khuyến nghị và chia sẻ kinh nghiệm đào tạo phát triển nhân lực ĐHN mà Việt Nam có thể tham khảo:
Một là, coi nguồn lực con người là yếu tố quyết định. Bởi trong điều kiện hiện nay, những nước có hoàn cảnh như Việt Nam hoàn toàn có khả năng mua những công nghệ và thiết bị tiên tiến nhất, nhưng ngành ĐHN của một quốc gia không thể không có hiểu biết về ĐHN.
Hai là, coi trọng cân đối hai quá trình đào tạo nhân lực phát triển công nghệ và đào tạo nhân lực vận hành các công nghệ ĐHN. Theo các chuyên gia Nga, những quốc gia đi sau như Việt Nam, thông thường được hưởng lợi từ các nước đi trước về công nghệ hạt nhân, do vậy, để tránh thiên lệch, cách đào tạo tốt nhất nguồn nhân lực ĐHN là phải kết hợp hai mục tiêu: 1) Đào tạo nguồn nhân lực để phát triển ngành công nghệ hạt nhân của Việt Nam; 2) Đào tạo để sử dụng, vận hành an toàn nhà máy ĐHN cùng các công việc phụ trợ. Họ nhấn mạnh, nếu không kết hợp hai mục tiêu này thì Việt Nam chỉ đào tạo được những chuyên gia vận hành mà không có chuyên gia về công nghệ hạt nhân.
Ba là,đào tạo nguồn nhân lực ĐHN phải luôn gắn bó chặt chẽ và song hành với sự tồn tại và phát triển của công nghệ hạt nhân. Bởi công nghệ hạt nhân cũng như mọi loại hình công nghệ khác biến đổi và phát triển rất nhanh, nếu con người không nắm bắt kịp thời và làm chủ được nó thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.
Như vậy, sau sự cố ĐHN ở Nhật Bản, các nước trên thế giới đều xem xét lại toàn bộ việc đảm bảo an ninh hạt nhân của mình. Gần đây Cộng hòa Liên bang Đức tuyên bố từ bỏ ĐHN. Tuy nhiên, phát triển năng lượng ĐHN hiện nay vẫn đang là một phương hướng tối ưu để giải quyết căn bản tình trạng thiếu năng lượng trên phạm vi toàn cầu. Phát triển nguồn nhân lực cho ngành ĐHN cần phải được đặt lên hành đầu trong số những ưu tiên của chiến lược này. Vì vậy, những bài học kinh nghiệm về an ninh ĐHN, đào tạo nhân lực cho công nghiệp ĐHN của các nước phát triển cần được các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách của Việt Nam đặc biệt quan tâm./.








