Nguồn nhân lực công nghệ cao: Bao giờ hết khan hiếm ?
GS Takahiro Fujimoto, ĐH Tokyo cho rằng, các nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Thái Lan cần phải làm chủ được quá trình sản xuất tích hợp chứ không phải bắt chước quá trình sản xuất mô-đun kiểu Trung Quốc. Đối với các nước đang phát triển, sản xuất theo mô-đun sẽ dễ dàng hơn nhưng đi liền với nó là những hạn chế như cung ứng quá mức, giá sản phẩm bị hạ xuống, lợi nhuận thấp và thiếu động lực để cải tiến công nghệ.
Nhật Bản là nước sản xuất theo kiểu tích hợp nhưng đang phải đối mặt với mức lương cao và dân số đang bị già hóa. Nước này mong muốn tìm kiếm được một quốc gia đối tác đang phát triển với dân số trẻ để thực hiện quá trình sản xuất này nhưng đến nay vẫn chưa tìm được. Một mặt, các nước ASEAN rất cần xây dựng nguồn lao động trình độ cao hơn mức yêu cầu của việc lắp ráp đơn giản nhằm tăng trưởng bền vững và cạnh tranh với Trung Quốc. Nếu Việt Namtìm cách trở thành đối tác nêu trên với tầm nhìn dài hạn thì Nhật Bản và Việt Nam có thể trở thành liên minh chiến lược trong quá trình sản xuất tích hợp. Những nước ASEAN khác đã đặt vấn đề này với Nhật Bản.
Để có được số lượng lớn kĩ sư chất lượng cao, bản thân cá nhân và cả cộng đồng phải nỗ lực để thúc đẩy các chương trình hiện có và xây dựng những chương trình mới. Các chuyên gia và Cty của Nhật Bản gợi ý một số biện pháp sau.
Thứ nhất, các chương trình hiện có cần phải được thực hiện một cách có hiệu quả nhất. Ví dụ: một nhà cung cấp các sản phẩm khuôn mẫu đã gửi 5 lao động người Việt Nam sang Nhật Bản để đào tạo dưới sự hỗ trợ của Tổ chức đào tạo kĩ thuật hải ngoại - một tổ chức của Chính phủ Nhật Bản. Bên cạnh đó, rất nhiều Cty của Nhật đã tổ chức các cuộc thi nội bộ như kiểm tra chất lượng hoặc thi tay nghề để lao động cùng nhóm kinh doanh ở các nước có thể tham gia thi.
Thứ hai, Chính phủ Việt Nam cần hỗ trợ các chương trình đào tạo do các Cty tổ chức. Các nhà sản xuất thiết bị phụ trợ đề xuất mức hỗ trợ 50% các chi phí liên quan đến hoạt động đào tạo của các Cty. Đây chính là mối quan tâm của nhiều DN Nhật đang kinh doanh tại Việt Nam .
Thứ ba, cần thành lập một hệ thống khuyến khích và chứng nhận lao động kĩ thuật cao trong các ngành chế tạo (Meister). Nhật Bản đã có hệ thống này ở cấp quốc gia, tỉnh - thành phố và Cty. Các cấp này phối hợp với nhau để khuyến khích lao động có trình độ kĩ thuật tốt ngày càng cải thiện chất lượng và họ được xã hội thừa nhận. Ví dụ: một trong số 10 Cty hàng đầu của Nhật Bản chuyên sản xuất thiết bị điện tử có hệ thống nội bộ để đánh giá trình độ lao động trong việc rửa ống kính, sơn và lắp điện. Các ứng viên tham gia quá trình đánh giá sẽ được phân loại theo hạng A, B, C. Sau đó, Cty này sẽ gửi những lao động được xếp hạng A đến các văn phòng chứng nhận lao động kĩ thuật cao ở cấp Trung ương và địa phương. Nếu những người này nhận được chứng nhận từ Chính phủ, Cty sẽ thưởng cho họ một chức danh trình độ mang tính nội bộ cùng với khoản tiền thưởng khoảng 4.200 USD.
Thứ tư, các chương trình đào tạo phối hợp giữa Cty có vốn đầu tư nước ngoài với nhà cung cấp trong nước. Các chương trình này nhằm mục tiêu chuyển giao kĩ thuật cho các DN trong nước và cũng tạo cơ hội để hai bên hiểu biết và làm việc với nhau. Một trong những chương trình thành công nhất là chương trình đào tạo phối hợp ở Trung tâm nâng cao tay nghề Penangở Ma-lai-xi-a. Đây cũng là địa điểm mà Tập đoàn Intel, có dự án xây dựng nhà máy sản xuất chíp điện tử tại Khu công nghệ cao TP Hồ Chí Minh trị giá 1 tỉ USD, sẽ đưa nhân lực đến đào tạo. Rất nhiều Cty của Nhật Bản nói rằng, nếu chính phủ thực sự quan tâm đến các chương trình này, họ sẽ gửi nhiều kĩ sư có kinh nghiệm sang đào tạo hoặc cung cấp thiết bị cần thiết cho các khóa học.
Thứ năm, việc giáo dục dạy nghề cần được tăng cường ở các trường phổ thông, CĐ công nghiệp và trường ĐH. Một nhà cung cấp linh kiện xe máy phàn nàn rằng kết quả của việc gửi lao động sang Nhật để đào tạo không như ý muốn bởi lao động Việt Nam thiếu những kĩ năng và kiến thức cơ bản để có thể tiếp nhận công nghệ hiện đại. Chính phủ cần chú trọng hơn nữa đến đào tạo nguồn lao động có kĩ năng cơ bản nhưng lại có nhu cầu rất cao như kĩ sư sản xuất hoặc quản lý nhà máy, thay vì dùng mĩ từ như IT (công nghệ thông tin), công nghệ cao, công nghệ sinh học...
Một nghiên cứu của Cty Nghiên cứu thị trường Vietnam Works cho thấy, hiện Việt Nam chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhân lực có trình độ quản lý phù hợp với trình độ chung trong khu vực. Trong khi đó, đào tạo nhân lực có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa công nhân, kĩ sư thực hành và bộ phận quản lý. Bản thân cơ cấu đào tạo ngành nghề giữa khoa học, công nghệ so với kinh tế, luật và khoa học xã hội, nhân văn cũng có nhiều bất ổn.
Rõ ràng, dưới góc nhìn của nhà sản xuất, nhân lực công nghệ cao Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn cần giải quyết. Những gợi ý từ một công trình nghiên cứu trên đây hi vọng sẽ đem lại điều gì đó cho các nhà quản lý...








