Nguồn Lợi Và Thu Hoạch Rong Mơ - Sargassum Ở Ninh Thuận
Rong mơ ở Việt Nam :
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, bờ biển dài 3.260 km với hơn 4.000 hòn đảo lớn nhỏ. Ven biển, khí hậu ôn hòa có gần một ngàn loài rong biển phân bố, đã tìm thấy 700 loài rong biển có kích thước lớn, trong đó họ rong mơ - Sargassaceaecó sản lượng tự nhiên cao nhất và thành phần loài phong phú nhất. Họ rong mơ thuộc bộ rong đuôi ngựa - Fucales, ngành rong nâu - Phaeophyceae. Chi rong mơ Sargassumlà một giống tảo lớn (macroagae), phân bố rộng từ Bắc xuống Nam và các hải đảo, trữ lượng tập trung cao tại vùng ven biển đặc biệt tại các tỉnh từ Quảng Nam đến Ninh Thuận. Rong mơ mọc trên tất cả các bờ biển đá, đá vôi, san hô chết, bám vào đá cuội trong khoảng từ mức triều thấp tới vài mét sâu. Rong có kích thước cá thể rất lớn, có thể dài tới 6 - 8m, sinh lượng từ 7-12 kg rong tươi trên mỗi mét vuông, rong bám vào đá nhờ đĩa bám hay hệ thống rễ giả, rễ bò phân nhánh. Thân rong có trục chính, trên đỉnh phân thành các nhánh chính và các nhánh bên. Trên các nhánh có các cơ quan dinh dưỡng gần giống như lá và các túi chứa không khí gọi là phao.
Trên thế giới, rong mơ được tìm thấy khắp các vùng biển nhiệt đới, ngoài ra còn phân bố ở Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines, Úc... với hàng trăm loài rong mơ và 10 ngàn loài rong biển khác. Tên Sargassumđược các thủy thủ Bồ Đào Nha đặt tên vì tìm thấy nhiều rong mơ ở biển Sargasso gần Bồ Đào Nha.
Đa số loài rong mơ có cây đực và cây cái riêng, khi rong đạt kích thước tối đa, chúng sẽ mọc ra các nhánh ngắn gọi là nhánh phụ, trên đó có cơ quan sinh sản. Sự thụ tinh chỉ xảy ra với các giao tử đực và cái đã được phóng thích vào nước biển, hợp tử sẽ phát triển liền ngay sau đó, chúng bám vào các bờ đá hoặc san hô chết để phát triển thành cây mầm. Khi đạt tới khoảng 4 - 5 cm, cây mầm bắt đầu phát triển nhanh thành cây rong mơ. Các bãi rong mơ ở vùng triều thường do cách sinh sản hữu tích tạo nên. Sinh sản dinh dưỡng thường xảy ra từ phần gốc hay những đoạn đứt của cây cũ sống trôi nổi theo dòng triều có thể phát triển thành cây mới.
![]() |
Rong mơ có giá trị kinh tế cao do có trữ lượng lớn, các sản phẩm của rong mơ được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm, hóa học, sinh học và y học. Rong mơ còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa hệ sinh thái môi trường biển, nơi sinh sống và sinh sản của sinh vật biển. Rong mơ xuất hiện rộ từ tháng 11 đến tháng 7 năm sau, nhưng mùa vụ khai thác chủ yếu từ tháng 2 đến tháng 7 hàng năm khi rong đạt kích thước lớn, trữ lượng ước tính khoảng 30.000 - 35.000 tấn.
Rong mơ ở Ninh Thuận:
Biển Ninh Thuận được trải dài hơn 105 km, diện tích vùng biển nội thủy 1.800 km 2, vùng lãnh hải rộng 18.000 km 2, vùng đặc quyền kinh tế 24.000 km 2. Theo kết quả điều tra trước đây của Viện Hải Dương học Nha Trang về nguồn lợi thủy sản thì vùng biển Ninh Thuận có 188 loài rong biển. Trong đó chỉ rong mơ - Sargassumkhoảng 18 loài, có trữ lượng lớn nhất. Các loài phổ biến ở Ninh Thuận như rong lá mơ ( S. oligocystum), rong mơ nhiều phao ( S. polysystum), rong lá mơ Mcclurei ( S. mcclurei), rong mơ lá dày ( S. crassifolium), rong mơ phao nhỏ ( S. microcystum), rong mơ bìa đôi ( S. duplicatum), rong lá mơ ( S. denticarpum), rong lá mơ Swartz ( S. swartzii)... Mùa vụ khai thác rong mơ tự nhiên ở Ninh Thuận chủ yếu từ tháng 2 đến tháng 5 hàng năm, trữ lượng ước tính hơn 6.000 tấn tươi.
Trong 4 tháng vừa qua, liên tục từ tháng 2-2011 đến cuối tháng 5-2011, hằng ngày có không dưới 300 người từ Cà Ná, Sơn Hải, Đông Hải, Mỹ Tân, Bình Tiên... đổ xô ra biển thu hoạch rong mơ. Mỗi người thu hoạch khoảng 100 kg rong mơ tươi, phơi nắng một ngày còn lại khoảng 34 kg rong khô (khô 1 nắng); tỉ lệ tươi/khô là 3/1. Chỉ một ngày phơi nắng ngay trên bờ biển, rong khô bán với giá 5.000 đ/kg, nếu số lượng từ 100 kg khô trở lên thì có người đến mua tại chỗ phơi, như vậy một lao động kiếm được hơn 100.000 đ/người/ngày. Năm 2011, mưa nhiều, gió Bấc kéo dài, rong mơ được mùa, ước tính sản lượng khai thác 1.000 tấn khô (3.000 tấn rong tươi).
Với hình thức thu hái thủ công theo kiểu “nhổ tận gốc, bứng tận ngọn” tập trung ở vùng nước cạn độ sâu khoảng 2-5 m. Khai thác cả cây con đang lớn, thu hái toàn “thân, lá, rễ” của cây rong mơ một lần trong chu kỳ sống, làm giảm lượng bào tử của cây rong trưởng thành và như vậy sẽ làm giảm diện tích phân bố rong tự nhiên cho những mùa sau. Ngoài ra cách thu hoạch như vậy còn làm giảm sản lượng và chất lượng rong khô nguyên liệu.
Sử dụng rong mơ:
Vách tế bào rong mơ có chứa axit alginic là một loại polysaccharit có giá trị, tạo nên nhũ tương mịn và bền được dùng nhiều trong công nghiệp dệt, giấy, sơn, cao su, phim ảnh, đồ trang điểm, công nghệ thực phẩm... Ngoài ra, rong mơ có chứa iot (45,3mg% - 60mg%), axit alginic, alginat, chất béo, đường, canxi photphat, sắt... và trong rong mơ còn có 23 nguyên tố là Al, Si, Mg, Ca, Sr, Ba, Fe, V, Mor, Ti, Co, Ni, Cr, Sn, As, Bi, Cu... và 17 axit amin rất cần thiết cho người. Rong mơ đã được nhân dân biết đến và sử dụng từ lâu, cách sử dụng truyền thống như làm phân bón cho các loại thuốc lá, khoai lang, hành tỏi. Ở Việt Nam , việc dùng rong mơ làm thực phẩm không nhiều như ở Nhật Bản hay Trung Quốc, thường chỉ dùng một vài loài như rong mơ vàng ( S. flavicans) rong mơ chum ( S. carpophyllum), rong mơ mềm ( S. tenerrimum) để nấu canh, kho với thịt cá. Hiện một số hiệu thuốc đông y thường bán rong mơ khô như một loài dược thảo để chữa bướu cổ. Thực tế cho thấy, ở một số nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản... họ không chỉ khuyến khích khai thác rong mơ hợp lý mà còn tiến hành trồng rong mơ tại các vùng biển.
Công nghệ chế biến keo alginat (dạng dịch, dạng bột) từ rong mơ Việt Nam đã được triển khai (tp. Hồ Chí Minh và Nha Trang). Những năm gần đây rong mơ được khai thác và cung cấp chủ yếu để làm trà rong biển (Công ty Hùng Phát ở tp. HCM), làm phân hữu cơ bón gốc và bón lá cho cây trồng (Công ty Thiên Sinh, Humix ở tp. HCM...). Một số Công ty nước ngoài (Trung Quốc, Nhật Bản) đang xúc tiến việc thu mua nguyên liệu rong biển ở các tỉnh miền Trung trong đó có Ninh Thuận. Vì vậy giá nguyên liệu thu mua thô hiện nay có giá 5.000 - 7.000 đồng/kg khô.
Đặc biệt trong vài năm gần đây rong mơ được chú ý như nguồn sinh khối khổng lổ, dễ nuôi trồng, mau phát triển và lại cũng dễ khai thác dùng làm nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học. Hai thành phần chính của rong là fucoidan và acid alginic được chuyển hóa thành nhiên liệu nhờ các enzyme. Đầu tháng 11/2008 một dự án hợp tác giữa Hàn Quốc và Indonesianhằm trồng rong ở các đảo Maluku, Belitung và Lombokđể sản xuất biodiesel theo công nghệ Italia. Nhưng tham vọng hơn cả là Nhật Bản bắt đầu triển khai từ tháng 3/2007, họ sử dụng 10.000 km 2mặt nước để trồng loài rong mơ Sargassum hondawaranhằm sản xuất mỗi năm 20 triệu mét khối bioethanol, nghĩa là tương đương với 1/3 nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu của nước này.
Quan trọng hơn nữa, rong mơ còn chứa một lượng khá lớn nguyên tố Strontium (Sr) với lượng tích tụ cao hơn khoảng 100 lần hàm lượng trong nước biển, vì Sr là thành phần của chất thải phóng xạ nên tính chất này của rong mơ góp phần làm sạch chất thải phóng xạ trong nước biển. Người ta còn phát hiện chất natri alginat chiết từ rong mơ có thể chữa được bệnh nhiễm phóng xạ vì chất này uống vào sẽ hấp thu Sr phóng xạ đã bị nhiễm trong cơ thể rồi thải ra ngoài.
Bảo vệ nguồn lợi rong mơ:
Rong mơ có khả năng điều tiết và cân bằng các chu trình vật chất của hệ sinh thái ven bờ trong chuyển hóa chuỗi thức ăn, tạo dựng nền đáy và nơi sinh cư cho các loài thủy sinh khác. Công nghệ khai thác rong mơ tiên tiến nhất hiện nay trên thế giới là dùng tàu lớn có cần trục dài 10 - 15 m gắn với hệ thống dây xích cắt cuộn rong mơ từ nền đáy, để lại phần gốc chỉ thu từ phần thân gốc đến ngọn và đưa lên tàu.
Hiện nay việc khai thác rong mơ đang diễn ra một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch tại nhiều địa phương. Phương thức khai thác chủ yếu là “nhổ tận gốc, bứng tận ngọn” đã làm cho rong mơ bị suy giảm về sinh khối và diện tích phân bố gây ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái biển. Tuy nhiên, việc khai thác hợp lý và bền vững nguồn tài nguyên này đang là vấn đề cần quan tâm. Để quản lý và khai thác nguồn lợi rong mơ một cách bền vững, đề nghị thực hiện một số giải pháp sau: Tuyên truyền rộng rãi cho nhân dân biết về nguồn lợi, giá trị của rong mơ đối với môi trường sống, đa dạng sinh học, hệ sinh thái biển cho cộng đồng cư dân sinh sống và khai thác rong biển trong địa bàn tỉnh; Kế hoạch khai thác phải được nghiên cứu trình tự một cách cẩn thận về sinh lượng, sinh sản, tái sinh, phát tán bào tử để xác định thời gian thu hoạch, lượng thu hoạch, mà không ảnh hưởng đến sản lượng; Phổ biến mùa vụ khai thác hợp lý, khai thác chọn lọc cây rong lớn trước và cắt thu hoạch để lại 10-15 cm phần thân gốc tiếp tục phát triển để thu hoạch lần 2; Tăng cường sức mạnh của các tổ chức cộng đồng trong việc ngăn chặn các nghề khai thác rong mơ mang tính hủy diệt nguồn lợi và phá hủy môi trường; Khai thác hợp lý có tác dụng tốt là vừa tận dụng được tài nguyên rong mơ thiên nhiên, vừa đảm bảo và phát triển được tài nguyên ấy;
Thu hái rong mơ như vậy tăng thêm thu nhập cho những người nông nhàn - ngư nhàn và lao động chưa có việc làm ổn định. Tuy nhiên cần bảo vệ có hiệu quả và duy trì năng suất sinh học cao của rong mơ, đóng góp cho việc khai thác hợp lý, bền vững thì việc điều tra nghiên cứu trữ lượng và phương thức quản lý tổng hợp nguồn lợi rong mơ ven bờ là rất cần thiết. Cần có đề tài khoa học nghiên cứu và đề ra các giải pháp quản lý và bảo vệ khả thi nhằm duy trì sản lượng khai thác 1.000 tấn rong mơ khô tại Ninh Thuận hàng năm.