Người Việt có tố chất làm khoa học
- Có quan niệm rằng, người Việt thông minh, bảo thủ, nhưng theo GS thì người Việt Nam có tố chất, điểm mạnh, điểm yếu gì khi làm khoa học?
Tôi cho rằng, người Việt Nam khá thông minh so với mặt bằng chung trên thế giới. Nhanh, nhạy là đặc điểm nổi bật. Điểm yếu thứ nhất là thiếu tính thực tiễn. Tôi nói vậy bởi đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành, giữ các vị trí chủ chốt đều là những người được đào tạo cơ bản tại các nước có nền khoa học phát triển. Về mặt lý luận, nhiều nhà khoa học của Việt Nam đứng trong hàng xuất sắc của thế giới. Nhưng đó cũng là điểm yếu vì chỉ giỏi lý luận nên khi bàn về các vấn đề khoa học hiện thực thì lại rất vướng mắc.
- Vậy phải làm thế nào để có thể khắc phục được tính thiếu thực tiễn của đội ngũ các nhà khoa học Việt Nam ?
Muốn khắc phục, các trường đại học phải có những cải tổ cả về nội dung và chương trình. Phải có sự gắn kết giữa các trường đại học với các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp. Sự gắn kết này cũng đã được kêu gọi trong một vài năm gần đây nhưng hiệu quả vẫn thấp. Tôi cho rằng, sự gắn kết vẫn chưa chặt. Mục đích của người làm khoa học thì vì cái luận án này, luận án kia. Doanh nghiệp thì chạy theo lợi nhuận.
Do mục đích khác nhau mà chưa gắn kết với nhau. Cần phải có cách tổ chức sao cho các tổ chức, các doanh nghiệp đặt hợp đồng các viện nghiên cứu, các trường đại học nhiều hơn thì sẽ gắn kết tốt hơn. Qua đó, tính thực tiễn của khoa học cũng được nâng cao hơn. Các nước khoa học phát triển đã làm rất tốt gắn kết này. Cần có sự định hướng và quản lý của Nhà nước, nếu để doanh nghiệp và các trung tâm nghiên cứu tự mày mò, tự tìm đến với nhau thì cũng sẽ được nhưng sẽ lâu hơn và mất công hơn.
- Ông có cho rằng cơ hội để khoa học của Việt Nam vươn lên phát triển mạnh mẽ đã đến?
Tôi cho rằng, thời điểm hiện nay là đã chín để cho ngành khoa học công nghệ của Việt Nam vươn lên phát triển mạnh mẽ. Thực tế thì cơ hội lúc nào cũng có nhưng thời điểm hiện nay hội tụ nhiều yếu tố tốt như Việt Nam vừa gia nhập WTO, hội nhập quốc tế, các nước đang hướng đến Việt Nam như một môi trường đầu tư tốt. Đó chính là cơ hội để phát triển. Cái cần thay đổi hiện nay để khoa học phát triển chính là cơ cấu tổ chức và cách thức quản lý. Đội ngũ giảng viên của các trường đại học nên vừa giảng dạy vừa nghiên cứu để qua đó không chỉ nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn nâng cao tính thực tiễn.
- Vậy GS đánh giá như thế nào về việc khoa học trả lại tiền ngân sách Nhà nước trong đầu năm 2007? Làm sao để trong năm 2008 không xảy ra điều đó nữa?
Theo tôi được biết thì không phải chỉ năm 2007 mới thừa tiền nghiên cứu khoa học. Một số năm trước đó cũng thừa. Chỉ khác một điều là năm 2007 số tiền thừa đó đã được công khai công bố. Tuy nhiên, cũng không nên nhìn nhận sự việc theo kiểu đơn thuần là khoa học đã không tiêu hết tiền ngân sách. Vấn đề là do cơ chế. Cơ chế chưa tạo được một điều kiện thật tốt cho các nhà khoa học làm công tác nghiên cứu. Các định hướng chưa thật chuẩn xác. Các thủ tục hành chính còn rườm rà. Nhà nước cần phải có những điều chỉnh cho hợp lý hơn trong năm 2008 và các năm tiếp theo.
- Báo chí nói chung, báo KH&ĐS nói riêng đã và cần phải làm những gì để góp phần mình vào sự phát triển chung của nền khoa học nước nhà?
Từ khi mới thành lập cho đến nay, chất lượng của báo KH&ĐSđã được nâng lên rất nhiều. Thời gian tới, báo nên tăng cường thêm những bài viết mang tính chỉ dẫn, hướng dẫn. Thông tin không nên chỉ dừng lại ở khía cạnh nâng cao kiến thức. Báo KH&ĐSnên có gợi mở về những hướng phát triển để Nhà nước có những đầu tư.
Để làm được như vậy, cần có những trao đổi với các nhà quản lý, các nhà khoa học. Hiện, giữa các nhà quản lý và các nhà khoa học còn nhiều cái chưa khớp nhau. Những đường lối chính sách được đưa ra chủ yếu dựa trên ý kiến chủ quan của nhà quản lý dẫn đến việc khó cho khoa học phát triển. Một trong những nhiệm vụ của KH&ĐSlà cần phải làm sao để thay đổi được rào cản này.








