Người lính già đầu bạc kể mãi chuyện Nguyên Phong… *
Còn trong Chiến thắng mùa Xuân 1975, nếu tính từ 10 - 3 - 1975 bắt đầu chiến dịch Tây Nguyên, ta đánh Buôn Ma Thuột đến 30 - 4 - 1975 thì ta giải phóng miền Nam trong vòng 50 ngày. Nếu tính cả thời gian chuẩn bị, từ đêm mồng 3 rạng sáng ngày 4 - 3 - 1975 trung đoàn 95A và Sư đoàn 3 Quân khu 5 đánh cắt và làm chủ đoạn đường số 19 thì cũng chỉ có 57 ngày đêm. Cách nhau 21 năm, từ 1954 đến 1975 mà khoảng thời gian tác chiến chiến lược chỉ huy chênh nhau chỉ có 1 ngày.
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương dự tính sẽ giải phóng miền Nam trong vòng hai năm, nhưng sau khi chiến thắng Buôn Ma Thuột, một chiến thắng có ý nghĩa chiến lược, thời cơ chiến lược đến, quân ta đã thần tốc trên tất cả các mặt trận. Với suy nghĩ đó, tôi đã đến gặp lão tướng Hoàng Minh Thảo, người bạn chiến đấu gần gũi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vào một sáng cuối thu 2008. Sau đây là những mẩu chuyện bác Hoàng Minh Thảo kể lại với chúng tôi trong suốt buổi sáng hôm đó:
Năm 1946, khi đi thị sát chiến trường vào đến Tuy Hoà, anh Văn đã nói: “Ai làm chủ được Tây Nguyên thì làm chủ được Đông Dương”. Vì coi trọng tầm quan trộng chiến lược của Tây Nguyên, anh Văn đã điều tôi vào nắm Tây Nguyên cả chục năm rồi. Có lần tôi ra Hà Nội họp tư lệnh các miền, anh Văn gọi riêng tôi ra hỏi: “Nếu đánh Tây Nguyên thì nên đánh ở đâu trước?”. Tôi nằm ở Tây Nguyên cả chục năm, tình hình địch tôi nắm chắc, nên tôi nói:
“Nếu đánh Tây Nguyên thì anh nên cho đánh Buôn Ma Thuột trước. Vì Buôn Ma Thuột là thị xã lớn nhất, hậu cứ của địch, nơi hiểm yếu, cũng là nơi địch sơ hở và ít quân hơn. Chỉ cần ta dụ được địch lên phía bắc Tây Nguyên”.
Anh Văn gật đầu, đồng ý, điều tôi làm Tư lệnh, Chỉ huy trưởng mặt trận Tây Nguyên và giao nhiệm vụ, phân công cho anh Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng đi cùng cánh quân phía tây.
Sau đó, anh Văn đã đi một nước cờ rất thần tình, bất ngờ cắm một quân đoàn (Quân đoàn 4) ở bắc Đồng Nai, một quân đoàn (Quân đoàn 2) ở Huế. Tự nhiên có hai quân đoàn này đứng gần các khu vực trọng yếu ấy thì buộc địch phải điều hai sư đoàn lính dù và sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, tổng dự bị chiến lược của chúng ra để giữ hai khu vực chiến lược quan trọng là Huế và Sài Gòn. Có như vậy địch mới để hở ở quãng giữa là Tây Nguyên… Quân đoàn 1 được lệnh hành quân cấp tốc từ Thanh Hoá áp sát bờ bắc sông Bến Hải.
Lực lượng của ta lúc bấy giờ chỉ tương đối so với địch. Ở Tây Nguyên, ta chỉ có hai sư đoàn. Anh Văn đột ngột tăng hai sư đoàn (sư đoàn 968 và Sư đoàn 316) cho Tây Nguyên. Từ đó Tây Nguyên có tới bốn sư đoàn và một số trung đoàn độc lập. Lại có sự phối hợp của Sư đoàn 3 quân khu 5, sự hỗ trợ của Sư đoàn 559, Tây Nguyên bỗng trở thành một quân đoàn mạnh. Thời cơ tăng thêm cho Tây Nguyên hai sư đoàn chính là cái nút của cuộc chiến tranh. Ta nghi binh (bằng làn sóng điện, điều động lực lượng, phao tin trong dân, tạo những sơ hở giả…), vây hãm, cô lập, “trói địch lại” đánh nghi binh ở phía bắc (Play Ku), nơi địch tương đối mạnh và nhử được Trung đoàn 45 (đội tiên phong của Sư đoàn 23) của địch từ Buôn Ma Thuột về Plây Ku, để tập trung sức mạnh của ta ở phía nam là Buôn Ma Thuột.
Địch mắc vào mưu kế của ta để sơ hở hướng nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột. Đánh địch bằng mưu kế, thắng địch bằng thế thời. Bác Hồ bảo: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí/ Gặp thời một tốt cũng thành công”, “Có quả cân chỉ một kilogam, ở vào thế có lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng được một vật nặng hàng trăm kilôgam. Đó là thế thắng lực…”.
Buôn Ma Thuột ở phía nam Tây Nguyên là một thị xã lớn nằm sâu trong vùng hậu phương địch, không trực tiếp đối mặt với trận tuyến của ta, nên địch không đề phòng, số quân ở đây cũng ít. Hơn nữa, công phá Buôn Ma Thuột là nơi địch sơ hở, nơi hiểm yếu của khâu yếu nhất trong hệ thống phòng ngự của địch, một địa bàn chiến lược rất cơ động, là ngã ba đường chiến lược quan trọng, từ đây quân ta có thể phát triển chia quân làm ba hướng đánh xuống vùng đồng bằng ven biển và Đông Nam bộ, chiến trường miền Nam sẽ bị cắt làm đôi. Quân khu 3 và Sài Gòn sẽ bị uy hiếp từ phía đông.
Khó nhất là lúc lừa nhử địch lên bắc Tây Nguyên: Thực hiện ghìm địch ở đầu mạnh, để tiến công phá vỡ địch ở đầu yếu. Làm cho chúng tưởng là ta sắp đánh lớn để thông đường hành lang mặt trận, nối liền tuyến vận chuyển từ Bắc vào Nam. Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh vùng II chiến thuật là một tay cáo già, sau khi họp, hắn trao đổi riêng với Trần Văn Cẩm, chuẩn tướng, Phó tư lệnh Quân đoàn 2 phụ tá hành quân, và Lê Khắc Lý, đại tá, tham mưu trưởng quân đoàn…. rằng sẽ có thể còn rất nhiều điều bất ngờ ngoài dự tính. Có ý kiến cho rằng, đánh Plây Ku và Kon Tum chỉ là đòn nghi binh, đối phương sẽ đánh vào Buôn Ma Thuột. Và có lúc Phạm Văn Phú đã nghi ngờ kế hoạch của ta, định đưa Sư đoàn 23 về lại Buôn Ma Thuột. Nhưng khi ta cho một Sư đoàn (968) đánh trận “giả” mà như thật cũng có pháo binh lớn yểm trợ tấn công ở Plây Ku thì… buộc địch phải theo kế hoạch của ta.
Công tác chuẩn bị chiến đấu của ta ở Buôn Ma Thuột gặp rất nhiều khó khăn. Công binh phải san rừng, xẻ núi, bắc cầu, ghép phà… làm đường mới hoàn toàn. Anh em bí mật cưa cây sẵn nhưng chưa cho đổ, khi cần vượt qua thì hạ đổ cho nhanh. Mở đường xe chạy trên những gốc cây mới cưa sát gốc. Đồng thời ta phải nguỵ trang hai bên đường, cho xe chạy ở dưới những vòm le. Tất cả phải là bí mật, bảo đảm cho từng đoàn xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo, xe vận tải… an toàn vào vị trí tập kết đúng ngày N. Trước giờ G. có khi chỉ mươi, mười lăm phút, địch còn nống ra súc sạo… Mũi súng địch chỉ cần chọc xuống đất hất lên là vướng vào dây điện thoại của ta vừa rải, phủ lá rừng lên. Đúng giờ G. ngày 10 - 3 ta nổ súng đánh Buôn Ma Thuột.
Đó là 2 giờ sáng. Trung đoàn đặc công (198) và pháo phản lực (ĐKB, H12 rốc két) của ta đánh vào sân bay và khu kho Mai Hắc Đế, địch vẫn tưởng là ta nghi binh. Lúc đó, công binh cũng đã cho đổ các cây cưa sẵn, để xe tăng, xe bọc thép, các binh chủng cơ giới bật đèn sáng trong đêm, mở hết tốc lực tiến vào vị trí xuất phát tiến công. Khi thấy xe tăng ta nghiến xích trên đường phố thì địch mới tin rằng Buôn Ma Thuột bị tấn công. Quân ta với tốc độ tiến công thần tốc đột phát thọc sâu, vu hồi, bắt đầu trút bão lửa, khiến quân địch choáng váng không kịp chuẩn bị đối phó, không kịp chấn chỉnh và điều động lực lượng… Vũ Thế Quang, đại tá, sư phó sư đoàn 23, tư lệnh nam Tây Nguyên, chỉ huy trưởng các lực lượng vũ trang của địch ở Đắk Lắk - Quảng Đức, Nguyễn Trọng Luật, đại tá, tiểu khu trưởng Đắk Lắk phải bỏ sở chỉ huy tháo chạy. Đến 11 giờ ngày 11 - 3 trận đánh Buôn Ma Thuột kết thúc.
Ta đã cho một trung đoàn (24) phục sẵn ở phía đông Buôn Ma Thuột. Sư đoàn 10, sau khi đánh Đức Lập xong, cấp tốc hành quân về Buôn Ma Thuột đón lõng ở nơi ta dự kiến địch sẽ đổ bộ bằng đường không. Địch cho máy bay lên thẳng đổ quân (Trung đoàn 45) nhảy dù xuống phản kích hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột, liền rơi vào cái bẫy của ta. Địch vừa tiếp đất đã bị ta tiêu diệt.
Đúng lúc ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp với đại tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên - Tổng tham mưu trưởng, trung tướng Đặng Văn Quang - Phụ tá an ninh quân sự của Tổng thống và thiếu tướng Phạm Văn Phú ở Cam Ranh (14 - 3 - 1975) quyết định: Phải rút khỏi Kon Tum và Plây Ku để bảo toàn lực lượng, rút lui chiến lược… Quân địch đang nguy ngập, nghe tin ấy thì kinh hoàng, tuyệt vọng, tháo chạy mang theo cả tâm lý hoảng loạn lan nhanh xuống đồng bằng…
Ta cắt rừng truy kích, đánh tiêu diệt tập đoàn địch rút chạy. Không cho thoát, không cho chúng kịp co cụm.. Plây Ku, Kon Tum không đánh mà được giải phóng. Chiến dịch Tây Nguyên đang trên đà thắng lớn, chiến dịch Huế - Đà Nẵng lập tức gối đầu.
Anh Văn với nhãn quan chiến lược, lập tức biệt phái anh Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng đi cùng với Quân đoàn II ở cánh phía đông để chớp thời cơ nhanh chóng cắt đứt đường số 1, không cho quân địch kịp co cụm ở Đà Nẵng (Liên hiệp quân sự) để củng cố tinh thần… Đánh ngay sân bay Phú Bài (Huế). Phải đánh ngay vào tinh thần khiếp nhược, rệu rã như một phản ứng dây chuyền domino của quân địch… Anh Lê Trọng Tấn được anh Văn chỉ định là Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà với phương châm “táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng”, đánh Đà Nẵng theo phương án chuẩn bị ba ngày. Anh Văn hạ lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Sau khi giải phóng Đà Nẵng, Quân đoàn 2 cánh phía đông của anh Lê Trọng Tấn với mũi thọc sâu của lữ đoàn xe tăng cơ động… cứ thế đánh thẳng vào dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh được mở ra: 17 giờ ngày 26 - 4 - 1975, lúc 15 sư đoàn của ta từ vị trí xuất phát tiến công, đã bao vây Sài Gòn từ năm hướng.
Thế quân ta lúc bấy giờ như nước cuốn, như chẻ tre. Ta chia quân làm ba mũi tiến xuống đồng bằng, đánh quân địch đang hoang mang khiếp sợ… Mũi thứ nhất (sư đoàn 3 Sao Vàng, Sư đoàn 968 và Trung đoàn 95A), theo đường 19 tiến xuống Bình Định. Mũi thứ hai (Sư đoàn 320), theo đường số 7 tiến xuống Tuy Hoà. Mũi thứ ba, Sư đoàn 10 của ta còn sung sức, tiến về đèo Phượng Hoàng - Ma - đrắc, theo đường 21, xuống Nha Trang giải phóng tỉnh Khánh Hoà và quân cảng Cam Ranh.
Khi các quân đoàn tham chiến tiến vào giải phóng Sài Gòn thì sư đoàn 308 của quân đoàn 1 - là quân đoàn mạnh nhất của quân đội ta, và một số đơn vị mới thành lập, đứng lại đường 9 để đề phòng quân Mỹ đổ quân vào đường 9, cắt ngang tuyến hậu cần Đông Dương. Chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu từ 4 - 3 đến 3 - 4 - 1975 thì kết thúc.
Câu chuyện dừng ở đây. Thời gian đã qua lâu, nhưng trong ánh mắt của vị tướng già vẫn còn ánh lên niềm tự hào của thời trai trẻ, khi ông còn chỉ huy ba quân trên trận tiền. Lời kể của ông tôi đã ghi lại một cách trung thành, mong góp một phần tư liệu cho những ai muốn tìm hiểu về những đầu óc chiến lược lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt Nam.








