Ngộ độc rượu
Tình hình sử dụng rượu trong dân chúng
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, khoảng 1/3 dân số thế giới có sử dụng rượu, trong đó 77 triệu người lạm dụng rượu. Lạm dụng rượu bia không chỉ gây hậu quả cho cá nhân những người uống rượu, gia đình họ mà còn để lại nhiều hậu quả cho xã hội. Điều rất đáng lưu tâm là những tiêu cực của việc lạm dụng uống bia rượu có tác động hết sức nghiêm trọng tới các hoạt động xã hội nói chung và đặc biệt trong lĩnh vực an toàn giao thông nói riêng.
Theo một công trình nghiên cứu rất công phu về tác dụng sinh lý của rượu, bia đã cho thấy: Hệ số tăng nguy cơ gây tai nạn tỷ lệ thuận với nồng độ cồn trong máu. Khi nồng độ cồn đạt 0,16 - 0,2 g/lít máu thì phản xạ bắt đầu giảm; khi độ cồn ở mức 0,2 - 0,3 g/lít máu: điện não bị ức chế, ước lượng sai về khoảng cách và tốc độ; từ 0,3 - 0,8 g/lít: cảm giác lâng lâng, phản ứng cử động bị ức chế kéo dài: ở mức 0,8 - 1,5 g/lít; rối loạn phản xạ…
Với người không dung nạp được rượu, nồng độ 150mg/dL (1,5 g/lít) hoặc hơn có thể gây ngủ lịm, mất điều hòa, nồng độ 250 mg/dL có thể hôn mê và tử vong, với nồng độ trên 450 mg/dL. Với liều cao, ethanol như là một thuốc mê, ức chế thần kinh trung ương, rối loạn các chức năng tự động (tụt huyết áp, hạ thân nhiệt), hôn mê và tử vong do ức chế hô hấp, trụy tim mạch.
![]() |
Biểu hiện lâm sàng như thế nào?
Bệnh nhân biểu hiện các mức độ rối loạn ý thức khác nhau: kích thích, sững sờ, hôn mê.
Mùi ethanol trong hơi thở nói chung thường có nhưng không phải trong tất cả các trường hợp.
Ngộ độc nhẹ và vừa: nói ngọng, mất điều hòa, rung giật nhãn cầu.
Nôn thường có ở những người ít uống rượu.
Trẻ em dưới 10 tuổi là đối tượng dễ bị hạ đường máu nhất, đường máu có thể hạ tương đối thấp.
Thái độ xử trí với bệnh nhân ngộ độc rượu
Khi được đưa vào các cơ sở y tế, bệnh nhân sẽ được:
- Đặt nội khí quản để đảm bảo đường thở thông thoáng và tránh sặc, thở máy nếu bệnh nhân thở yếu.
- Dùng naloxon (2mg, tiêm tĩnh mạch) cùng với 100 mg vitamin B1 tiêm bắp. Nếu hạ đường máu thì cần tiêm tĩnh mạch glucose ưu trương (25 - 50 g).
- Đặt ống thông dạ dày, rửa dạ dày và cho uống than hoạt nếu bệnh nhân đồng thời uống các chất độc khác và để theo dõi xuất huyết dạ dày.
- Cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho bệnh nhân.
- Nếu có hạ thân nhiệt thì sưởi ấm, truyền dịch, thức ăn ấm.
Tiếp tục điều trị hỗ trợ và theo dõi đến khi tỉnh trở lại.









