Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 31/07/2007 23:55 (GMT+7)

Nghiên cứu phương pháp kích thích lột xác đồng loạt ghẹ xanh (Portunus pelagicus) thương phẩm

Nhằm nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm ghẹ thương phẩm, Bộ Thủy sản đã giao cho Trung tâm Nghiên cứu NTTS III Nha Trang (nay là Viện Nghiên cứu NTTS III) thực hiện đề tài Nghiên cứu phương pháp kích thích lột xác đồng loạt ghẹ xanh (Portunus pelagicus) thương phẩm nhằm mục đích tìm ra một số yếu tố như thức ăn, sinh lý, hoá học có thể kích thích sự lột vỏ đồng loạt ở ghẹ xanh thương phẩm với tỷ lệ lột vỏ đạt 50%.

Phương pháp nghiên cứu


1. Thời gian và địa điểm


Thời gian: Từ 4/2002 đến 12/2003


Ðịa điểm: Viện Nghiên cứu NTTS III Nha Trang và lồng nuôi trên biển tại Phước Lý Phú Yên


2. Bố trí thí nghiệm


Ghẹ xanh (Portunus pelagicus) được chọn lọc từ khai thác tự nhiên và sản phẩm của nuôi thương phẩm từ con giống nhân tạo, với trọng lượng ban đầu từ 55-70 g/con. Các thí nghiệm được tiến hành trong các bể ximăng và lồng nuôi trên biển.


Nghiên cứu nuôi ghẹ lột tiến hành nhiều thử nghiệm khác nhau về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố gây sốc (yếu tố sinh thái: nhiệt độ, độ mặn; chất saponin), các chất kích thích (Chitoxan, hormon 20E (20-hydroxyecdyson), chất kích thích lột vỏ molt & grow) lên khả năng lột xác của 3 nhóm ghẹ không cắt mắt, cắt 1 mắt, cắt 2 mắt. Ðồng thời các kết quả thu được được so sánh với lô đối chứng không sử dụng các yếu tố gây sốc (hoặc các chất kích thích) ở cả 3 nghiệm thức tương ứng. Số lượng ghẹ ở mỗi nghiệm thức là 45 con và 90 con (các nghiệm thức sử dụng chất kích thích). Tỷ lệ đực cái là 1:1. Các thí nghiệm tiến hành trên ghẹ tự nhiên và lập lại ở ghẹ nuôi hay ngược lại. Ngoài ra, ở một số thí nghiệm còn được thực hiện đồng thời ở 2 địa điểm.


3. Thu thập và xử lý số liệu


Trong quá trình thí nghiệm chúng tôi thu thập các số liệu sau: Tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác, tỷ lệ đực/cái lột xác. Số liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm Excel.

Kết quả nghiên cứu


1. Các yếu tố gây sốc


Các biện pháp gây sốc trên ghẹ xanh đã không tạo ra sự kích thích lột vỏ, cũng có thể đây là ghẹ lột vỏ theo chu kỳ mà không phải do có sự tác động của gây sốc vì thời gian thí nghiệm kéo dài (50-70
ngày).


Các số liệu trong bảng 1 cho thấy không có sự khác biệt các thông số thí nghiệm giữa ghẹ nuôi và ghẹ tự nhiên. ở nhóm đối chứng, thời gian thí nghiệm có thể kéo dài 60 ngày: ở nhóm thí nghiệm, với nhiệt độ nước 20 -15 0C trong thời gian thí nghiệm 7-12 ngày, tỷ lệ chết của ghẹ khoảng 80-93% và không có cá thể nào lột vỏ.


Bảng 1: Kết quả gây sốc do nhiệt độ. Các nghiệm thức đối chứng nuôi ở điều kiện nhiệt độ bình thường (27-29 oC)


Kết quả gây sốc ghẹ bằng cách hạ độ mặn nước biển tự nhiên xuống độ mặn 10 và 20 0/ 00tương tự như nhau ở ghẹ nuôi và ghẹ tự nhiên (bảng 2). Không có sự khác nhau rõ rệt về tỷ lệ lột vỏ giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Những cá thể lột vỏ đa số là con cái, riêng ở lô ghẹ bị cắt 2 mắt có nhiều cá thể đực lột vỏ.


Bảng 2: Kết quả gây sốc do độ mặn. Các nghiệm thức đối chứng nuôi ở điều kiện nước biển tự nhiên có độ mặn 32-33 0/ 00


Giữa các nghiệm thức sử dụng Saponin ở các nồng độ và nghiệm thức đối chứng cũng không có sự khác biệt nhau về tỷ lệ lột vỏ và tỷ lệ sống.


Bảng 3: Kết quả gây sốc ghẹ nuôi bằng chất Saponin. Nghiệm thức đối chứng không sử dụng chất Saponin


2. Sử dụng thức ăn tươi có trộn chất kích thích lột vỏ của giáp xác


Thí nghiệm sử dụng chitoxan trộn vào thức ăn tươi và ngâm trong 1 giờ rồi cho ghẹ ăn 2 lần/ngày đã gợi mở một số vấn đề trong nghiên cứu. So sánh với việc sử dụng các biện pháp gây sốc để kích thích ghẹ lột vỏ thì sử dụng chitoxan trộn vào thức ăn đã rút ngắn được thời gian lột vỏ của ghẹ, nhưng tỷ lệ sống của ghẹ vẫn còn thấp. Vấn đề được đặt ra là nâng cao tỷ lệ sống của ghẹ sau cắt mắt.


Bảng 4 : Kết quả sử dụng chitoxan trộn với thức ăn tươi trong điều kiện nước biển tự nhiên


Số liệu ban đầu thu được khi sử dụng chitoxan trộn vào thức ăn cho ghẹ ăn đã đặt ra 3 vấn đề là: (1) chất kích thích nào phù hợp với ghẹ xanh và nó có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ghẹ sau khi bị cắt 2 mắt không? (2) Chukỳ lột vỏ của ghẹ có thể được rút ngắn lại khi sử dụng chất kích thích lột vỏ của giáp xác không? (3) Khả năng lột vỏ của ghẹ bị cắt 1 mắt so với ghẹ bị cắt 2 mắt?


Ðể có thể hiểu rõ hơn các câu hỏi trên, hai chất kích thích khác đã được chọn để trộn vào thức ăn của ghẹ là hocmon 20E và bột molt & grow.


Bảng 5 : Kết quả sử dụng hocmôn 20E trộn với thức ăn tươi trong điều kiện nước biển tự nhiên


Bảng 6 : Kết quả sử dụng molt & grow trộn với thức ăn tươi trong điều kiện nước biển tự nhiên


Từ các số liệu thu được từ các nhóm ghẹ được ăn thức ăn có trộn chất kích thích lột vỏ của giáp xác có thể nhận thấy: (1) nhóm ghẹ bị cắt 2 mắt được ăn thức ăn trộn hocmon 20E với nồng độ 1 ppm có khả năng đạt được tỷ lệ ghẹ lột vỏ cao trong 25 ngày thí nghiệm, nếu ghẹ sau khi cắt mắt có tỷ lệ sống cao; (2) nhóm ghẹ được ăn thức ăn trộn chitoxan với nồng độ 1% đạt tỷ lệ lột vỏ cao hơn nhóm ghẹ được ăn thức ăn trộn bột molt & grow với nồng độ 10%; (3) nhóm ghẹ bị cắt 1 mắt và nhóm ghẹ không cắt mắt đạt tỷ lệ lột vỏ thấp với thời gian thí nghiệm dài tới 45 ngày.


Bảng 7 : Kết quả sử dụng hocmon trộn với thức ăn tươi trong điều kiện nước biển tự nhiên (Thí nghiệm cắt mắt ghẹ ở nhiệt độ thấp)

Các thông số

Thức ăn tươi + 1 ppm hocmon

Thức ăn tươi + 1 ppm hocmon

Ghẹ tự nhiên

Ghẹ nuôi

Cắt 1 mắt

Cắt 2 mắt

Không cắt mắt

Cắt 1 mắt

Cắt 2 mắt

Không cắt

TT3

Tỷ lệ sống (%)

57,77

75,55

60,00

55,55

82,22

62,00

Tỷ lệ lột vỏ (%)

6,66

71,11

8,88

6,66

75,55

11,11

Tỷ lệ (đực : cái) lột vỏ

1 : 2

1 : 1

0 : 4

0 : 3

1 : 1

1 : 4

Phước Lý

Tỷ lệ sống (%)

60,00

88,88

62,22

57,77

86,66

57,77

Tỷ lệ lột vỏ (%)

8,88

86,66

6,66

4,44

84,44

8,88

Tỷ lệ (đực : cái) lột vỏ

1:3

1:1

0:3

0:2

1:1

0:4


Bảng 8: Kết quả sử dụng chitoxan trộn với thức ăn tươi trong điều kiện nước biển tự nhiên (Thí nghiệm cắt mắt ghẹ ở nhiệt độ thấp)

Các thông số

Thức ăn tươi + 1 % chitoxan

Thức ăn tươi + 1 % chitoxan

Ghẹ tự nhiên

Ghẹ nuôi

Cắt 1 mắt

Cắt 2 mắt

Không cắt

Cắt 1 mắt

Cắt 2 mắt

Không cắt

TT3

Tỷ lệ sống (%)

55,55

88,88

60,00

55,55

82,22

62,00

Tỷ lệ lột vỏ (%)

4,44

84,44

8,88

6,66

77,77

8,88

Tỷ lệ (đực : cái) lột vỏ

0 : 2

1 : 1

0 : 4

0 : 3

1 : 1

0 : 4

Phước Lý

Tỷ lệ sống (%)

62,22

93,33

62,22

55,55

91,11

55,55

Tỷ lệ lột vỏ (%)

8,88

91,11

6,66

6,66

91,11

8,88

Tỷ lệ (đực : cái) lột vỏ

0:4

1:1

0:3

0:3

1 :1

0:4


Sau khi thí nghiệm, còn các nhóm ghẹ khác có tỷ lệ lột vỏ 6-8% với thời gian bắt đầu lột vỏ khoảng 29-30 ngày sau khi thí nghiệm. Ðồng thời tỷ lệ sống của ghẹ sau khi cắt 2 mắt đạt khoảng 82-93%. Như vậy, cũng như sử dụng hocmon trộn vào thức ăn tươi để cho ghẹ ăn, sử dụng chitoxan đã thu được kết quả tốt về tỷ lệ sống và tỷ lệ lột vỏ ở nhóm ghẹ bị cắt 2 mắt.


Sử dụng bột molt & grow với nồng độ 10% trộn với thức ăn tươi thí nghiệm trên ghẹ nuôi và ghẹ tự nhiên đã thu được kết quả ở bảng 9. Ghẹ xanh sau khi cắt mắt được cho ăn thức ăn trộn bột molt & grow ở nồng độ 10% đã đạt được tỷ lệ lột vỏ 31-35% ở nhóm ghẹ bị cắt 2 mắt với thời gian bắt đầu lột vỏ là 20 ngày sau khi thí nghiệm, các nhóm khác có tỷ lệ ghẹ lột vỏ khoảng 4-6% với thời gian bắt đầu lột vỏ là 30 ngày sau khi thí nghiệm.


Ðể kiểm tra lại kết quả sử dụng chitoxan trộn với thức ăn tươi, thí nghiệm đã được lặp lại ở TT3 và Phước Lý. Các số liệu ở bảng 10 cho thấy, không có sự khác biệt về kết quả thí nghiệm giữa nhóm ghẹ nuôi và ghẹ tự nhiên.


Bảng 9 : Kết quả sử dụng molt & grow trộn với thức ăn tươi trong điều kiện nước biển tự nhiên (Thí nghiệm cắt mắt ghẹ ở nhiệt độ thấp)

Các thông số

Thức ăn tươi + 10 % molt&grow

Thức ăn tươi + 10 % molt&grow

Ghẹ tự nhiên

Ghẹ nuôi

Cắt 1 mắt

Cắt 2 mắt

Không cắt mắt

Cắt 1 mắt

Cắt 2 mắt

Không cắt mắt

TT3

Tỷ lệ sống (%)

44,44

48,,88

51,11

44,44

42,22

44,44

Tỷ lệ lột vỏ (%)

4,44

35,55

6,66

6,66

31,11

4,44

Tỷ lệ (đực : cái) lột vỏ

0 : 2

1 : 1

0 : 3

0 : 3

1 : 1

0 : 2

Phước Lý

Tỷ lệ sống (%)

46,66

48,88

46,66

51,11

44,44

46,66

Tỷ lệ lột vỏ (%)

4,44

33,33

6,66

4,44

35,55

6,66

Tỷ lệ (đực : cái) lột vỏ

0 : 2

1 : 1

0 : 3

0 : 2

1 : 1

0 : 3


Bảng 10 : Kết quả sử dụng chitoxan trộn với thức ăn tươi trong điều kiện nước biển tự nhiê n(Thí nghiệm cắt mắt ghẹ ở nhiệt độ thấp)

Các thông số

Thí nghiệm ở Phước Lý

Thí nghiệm ở TT3

Thức ăn trộn 1 % chitoxan

Thức ăn trộn 1 % chitoxan

Không cắt mắt

Cắt 2 mắt

Không cắt mắt

Cắt 2 mắt

Ghẹ nuôi

Tỷ lệ sống (%)

97,77

97,77

97,77

97,77

Tỷ lệ lột vỏ (%)

5,55

95,55

7,77

93,33

Tỷ lệ (đực : cái) lột vỏ

0 : 5

1 : 1

1 : 7

1 : 1

Ghẹ nhân tạo

Tỷ lệ sống (%)

97,77

97,77

96,66

96,66

Tỷ lệ lột vỏ (%)

4,44

95,55

6,66

93,33

Tỷ lệ (đực : cái) lột vỏ

0 : 4

1 : 1

0 : 6

1 : 1


3. Một số yếu tố môi trường và kỹ thuật nuôi ghẹ lột


3.1. Một số yếu tố môi trường


Khi nuôi ở các bể xi măng với điều kiện sục khí 24/24 giờ và thay nước 100%/ngày, yếu tố thủy lý và thủy hoá như nhiệt độ nước dao động 25-29 0C, độ muối 30-33 0/ 00, oxy hoà tan 6,2-6,5mg/l và pH khoảng 7,8-8,0 là hoàn toàn phù hợp với đời sống của ghẹ nuôi. Ðối với các thí nghiệm bố trí nuôi ở bè trên biển, các yếu tố môi trường này cũng nằm trong tiêu chuẩn nuôi thuỷ sản, cụ thể là nhiệt độ nước khoảng 26-30 0C, độ muối 29-33 0/ 00, oxy hoà tan 6,2-6,5 mg/l và pH khoảng 8-8,5. Nghĩa là trong điều kiện môi trường tự nhiên, có thể tiến hành nuôi và thu ghẹ lột.


3.2. Kỹ thuật nuôi và thu ghẹ lột


Từ kết quả thí nghiệm thu được, có thể tập hợp một số thông số kỹ thuật về nuôi và thu hoạch ghẹ lột quy mô nhỏ (bảng 11). Tuy nhiên, các thông số này vẫn cần kiểm nghiệm lại trong những nghiên cứu tiếp theo.

Bảng 11 : Một số thông số kỹ thuật về nuôi và thu hoạch ghẹ lột

Số TT

Các thông số

Yêu cầu kỹ thuật

1

Hình thái ngoài và trọng lượng ghẹ

Ghẹ chắc: 50-70 g/con

2

Môi trường nuôi

Nước biển tự nhiên

3

Kỹ thuật cắt mắt

Cắt 2 mắt bằng panh được khử trùng ở nhiệt độ nước 20 -2 0C

4

Thức ăn

Cá tạp tươi.

5

Lượng cho ăn (% khối lượng ghẹ)

10-20%/ ngày/lần x 2 lần

6

Chitoxan ngâm với TA trong 1 giờ

1g chitoxan / 100 g thức ăn

7

Thay nước (nếu ở bể xi măng)

100 %/ ngày

8

Thời gian nuôi (ngày)

14

9

Thời gian thu hoạch ghẹ lột

từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 14

10

Thời điểm vớt ghẹ lột ra ngoài

15- 20 phút sau khi ghẹ lột vỏ

11

Bảo quản sản phẩm

Tủ lạnh có nhiệt độ âm 20 0C

Kết luận


Từ những kết quả nghiên cứu đã thu được, có thể rút ra các kết luận sau :


1. Các biện pháp gây sốc ghẹ xanh bằng nhiệt độ, độ muối, saponin đã không tạo ra sự kích thích lột vỏ ở nhóm ghẹ không bị cắt mắt và nhóm ghẹ bị cắt mắt.


2. Xử lý ghẹ xanh bằng phương pháp cắt 2 mắt ở nhiệt độ 20-22 0C, sau đó cho ghẹ ăn bằng thức ăn thức ăn tươi (cá, tôm.. .) được trộn với các chất kích thích lột vỏ của giáp xác là hocmon 20E với nồng độ 1 ppm đã đạt được tỷ lệ lột vỏ khoảng 71-75% trong 20 ngày nuôi, hoặc là chitoxan với nồng độ 1% đã đạt được tỷ lệ lột vỏ đồng loạt khoảng 77- 95% trong 14 ngày nuôi.


3. Giữa hai nhóm ghẹ thí nghiệm là ghẹ nuôi và ghẹ tự nhiên không có sự khác biệt về tỷ lệ sống và tỷ lệ lột vỏ. Có thể sử dụng cả hai nguồn nguyên liệu này để sản xuất ghẹ lột.

Nguồn: Tạp chí thuỷ sản, 21/11/2005

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Lan tỏa thông điệp về sự sẻ chia, đồng cảm và tinh thần đoàn kết quốc tế giữa hai nước Việt Nam - Cuba
(Mặt trận) - Sáng 13/8, tại Hà Nội, ông Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự và phát biểu tại Lễ phát động cấp quốc gia Chương trình vận động ủng hộ nhân dân Cuba với chủ đề “65 năm nghĩa tình Việt Nam - Cuba”.
Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Trung ương Hội ND Việt Nam Lương Quốc Đoàn gặp mặt Khối diễu hành “Nông dân Việt Nam”
(Mặt trận) - Sáng 12/8, tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam (Gia Lâm - Hà Nội), ông Lương Quốc Đoàn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã có buổi gặp mặt lực lượng Khối diễu hành "Nông dân Việt Nam" tại đại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9.
Tổng hội Y học Việt Nam: 70 năm xây dựng và phát triển
Trải qua 70 năm xây dựng và phát triển, với sứ mệnh vừa kế thừa truyền thống vừa tiếp tục đổi mới phương thức và nội dung hoạt động, Tổng hội Y học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Vị trí, vai trò của Tổng hội được củng cố, nâng cao cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển chung của ngành y tế và của đất nước.
Đồng chí Đỗ Văn Chiến: Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy để phục vụ nhân dân tốt hơn, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc hơn
(Mặt trận) - Sáng 11/8, phiên chính thức Đại hội đại biểu Đảng bộ Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã khai mạc trọng thể tại Hà Nội. Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội.
Một trí thức Liên hiệp Hội tỉnh Bình Phước được Đồng Nai giữ lại tránh “chảy máu chất xám” trong sắp xếp bộ máy
Sở Nội vụ tỉnh Đồng Nai vừa có văn bản khẳng định ông Nguyễn Ngọc Vũ - Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật (KH&KT) tỉnh Đồng Nai, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bình Phước không thuộc diện giải quyết nghỉ việc theo Nghị định 178/2024/NĐ-CP.
VUSTA làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST)
Ngày 7/8, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Tp. Đà Nẵng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST). Đây là hoạt dộng trong khuôn khổ Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24 của AFEO do VUSTA tổ chức đăng cai.
Vinh danh 20 kỹ sư tiêu biểu tại Hội nghị AFEO năm 2025
Ngày 6/8, tại Đà Nẵng, trong khuôn khổ chương trình Hội nghị AFEO Midterm 2025 do Liên đoàn các Tổ chức Kỹ sư ASEAN (AFEO) phối hợp Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, 20 kỹ sư đến từ các đơn vị của Việt Nam đã được vinh danh tại Lễ trao chứng chỉ Kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN (ACPE) năm 2025.