Nâng công suất các tổ máy của Nhà máy Thuỷ điện Ya Ly
Hồi đó ông Nở còn làm Giám đốc Công ty điện Ya Ly. Ngành điện thiếu nguồn nghiêm trọng, nguồn phát ra không đủ cung cấp cho các phụ tải, dẫn đến trường hợp phải sa thải phụ tải, cắt nguồn một số hộ tiêu thụ vào các giờ cao điểm. Các thông số kỹ thuật của các tổ máy như nhiệt độ xéc măng, độ đảo trục, độ rung trong quá trình vận hành đều nhỏ hơn rất nhiều so với yêu cầu kỹ thuật của nhà máy chế tạo tua bin. Tương tự nhiệt độ xéc măng, thanh dẫn Stator trong quá trình vận hành đều nhỏ hơn rất nhiều so với yêu cầu kỹ thuật của nhà máy chế tạo máy phát. Các thiết bị khác trên sơ đồ nối điện chính như máy biến áp, máy cắt, dao cách ly... đều làm việc với các thông số kỹ thuật nhỏ hơn tiêu chuẩn cho phép.
Từ thực tế đó, ông Nở đã cùng tập thể cán bộ lãnh đạo Nhà máy đến các bộ kỹ thuật ở các tổ máy nghiên cứu, tính toán, nâng công suất vận hành của các tổ máy từ 180 MW lên 190 MW cho mỗi tổ máy.
Đối với tua bin, khi tổ máy làm việc ở công suất 180 MW, độ mở cánh hướng là 90%, nhưng khi tăng độ mở cánh hướng lên 94% để tăng lưu lượng qua tua bin 109m 3/s, sẽ tăng được công suất của tua bin lên 193,48 MW (tương ứng với cống suất máy phát là 190 MW). Kết quả thử nghiệm quá tải máy phát cho thấy: Khi nâng công suất lên 194 MW, độ rung, độ dao đảo tổ máy, các thống số thuỷ lực tổ máy đều đạt yêu cầu kỹ thuật, độ võng của giá chữ thập không thay đổi so với công suất cũ, tua bin làm việc an toàn.
Đối với máy phát, khi nâng công suất lên 190 MW, thì công suất biểu kiến của máy phát là 216 MVA, công suất phản kháng là 102,74 MVAr, thanh dẫn Stator vẫn an toàn, nhiệt độ xéc măng ổ đỡ máy phát là 55,7 0C, vẫn nhỏ hơn giá trị cho phép của Nhà máy chế tạo là < 85 0C; ở ổ dẫn hướng máy phát cũng 48 0C, trong khi giá trị cho phép của Nhà máy chế tạo < 75 0C; dòng điện kích từ 1650 A , giá trị thiết kế 1840 A.
Máy cắt đầu cực, dao cách ly, máy biến áp, cáp dầu 500 kv hoạt động ở công suất 190 MW vẫn đảm bảo an toàn. Các thiết bị rơ le bảo vệ, đo lường điều tốc vẫn nằm trong giới hạn cho phép hiệu chỉnh được.
Ưu điểm của giải pháp là tăng lượng điện phát hàng năm được thực hiện từ khi mực nước hồ chứa đạt cao độ 510m. Như vậy sẽ tạo được dung tích để tích nước hồ chứa khi có mưa lũ xẩy ra, đồng thời làm tăng khả nâng nâng sản lượng phát điện ở 4 tổ máy.
Sản lượng điện tăng thêm trong các tháng 8 - 11 trong các tổ hợp 65,28 x 10 6KWh. Những năm lưu lượng hồ chứa ít, sản lượng điện đạt 62,4 x 10 6KWh, những năm lưu lượng hồ chứa nhiều thì đạt 97,92 x 10 6KWh.
Ngoài ra, còn có công suất phủ đỉnh của hệ thống. Thời gian duy trì mực nước hồ chứa >cao độ 510m kéo dài từ 15/8 năm trước đến 28/2 năm sau. Vì vậy huy động công suất tối đa của các tổ máy có tác dụng nâng cao công suất phủ đỉnh của toàn bộ hệ thống trong những tháng mùa khô cuối năm.
Giải pháp này đã giúp nâng tổng công suất phát điện của Nhà máy Thuỷ điện Ya Ly thêm 40 MW, làm lợi 520 tỷ đồng cộng thêm 24,97 tỷ đồng do tăng công suất phủ đỉnh.
Giải pháp này có thể áp dụng cho các nhà máy thuỷ điện khác hiện đang sử dụng thiết bị của Liên Xô trong cả nước để giải quyết khó khăn cho ngành điện.
Nhà máy Thuỷ điện Ya Ly, là một đơn vị có phong trào thi đua lao động sáng tạo. Từ khi thành lập đến nay, lãnh đạo Nhà máy đã có sự quan tâm đặc biệt đến phát huy tài sản trí tuệ của đội ngũ lao động trong cơ quan, đưa Nhà máy phát triển bằng nội lực là chính. Ban giám đốc và tổ chức Công đoàn cơ quan đã cùng nhau phối hợp chặt chẽ động viên cán bộ, công nhân viên trong cơ quan luôn phát huy tính sáng tạo trong công việc. Toàn Nhà máy có hàng trăm giải pháp cải tiến kỹ thuật lớn nhỏ làm lợi hơn hàng trăm tỷ đồng. Năm nào Nhà máy cũng có hàng chục sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất. |