Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 10/02/2015 21:27 (GMT+7)

Nâng cao vai trò của KH&CN trong việc hình thành các quyết sách

Để đảm bảo tính gắn bó khăng khít giữa KH&CN với các quyết sách chính trị - kinh tế - xã hội thì đầu tiên chiến lược và các chính sách KH&CN phải lồng ghép chặt chẽ với các chiến lược, chính sách trong những lĩnh vực liên quan khác của quốc gia, và phải do toàn thể khối hành pháp cùng chủ động phối hợp thực hiện, bắt đầu từ người đứng đầu Chính phủ. Nếu không làm như vậy mà chỉ phân cấp cho một đầu mối chủ trì là Bộ KH&CN thì trong thực tiễn xây dựng và triển khai, đa số các chính sách KH&CN luôn bị giới hạn ít nhiều trong khuôn khổ tầm nhìn và thẩm quyền, trách nhiệm của một ngành, vấp phải nhiều rào cản khi triển khai vào đời sống, đặc biệt là sự trói buộc từ những cơ chế, chính sách hiện hành của các ngành, lĩnh vực khác.

Sự chậm trễ trong việc xây dựng, triển khai những chính sách KH&CN quan trọng ở Việt Nam trong thời gian qua, như chính sách về tự chủ hóa các tổ chức KH&CN công lập, chính sách về ưu đãi cho doanh nghiệp KH&CN, hay các nỗ lực đổi mới cơ chế tài chính dành cho hoạt động KH&CN, là minh chứng rõ nét cho sự đơn độc, kém hiệu lực, hiệu quả của các chính sách KH&CN khi chúng được triển khai mà thiếu sự phối hợp thống nhất, đồng bộ giữa các Bộ, ngành. Chính bởi những khó khăn, hạn chế này mà lâu nay đã có luồng ý kiến đề nghị thay đổi về cơ chế, làm sao để Bộ trưởng Bộ KH&CN thực sự được làm ‘tổng tư lệnh’ cho ngành của mình. Tuy nhiên, đó chỉ là ước mơ phi thực tế, bởi trong cơ chế nào mà thiếu sự chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của người đứng đầu Chính phủ thì tiếng nói của một Bộ, ngành riêng lẻ vẫn mang tính cục bộ, không dễ dàng thúc đẩy sự hỗ trợ, hợp tác của các Bộ, ngành khác để có thể nhanh chóng thay đổi những cơ chế, chính sách đã trở thành thông lệ, ăn sâu vào tư duy, thói quen của các nhà quản lý hành chính, cho dù chúng đã lạc hậu so với thế giới và không còn phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong nước.  

Để tìm giải pháp cho vấn đề này, nhìn vào kinh nghiệm của Mỹ và Singapore, chúng ta thấy chiến lược và chính sách KH&CN tầm quốc gia của họ đều do một hội đồng chủ trì xây dựng và điều phối thực hiện, trong đó đứng đầu hội đồng là người lãnh đạo cao nhất của Chính phủ. Ví dụ RIEC 1 (Hội đồng Nghiên cứu Đổi mới sáng tạo và Doanh nghiệp) của Singapore có 23 người, với 10 thành viên từ Chính phủ Singapore, bao gồm Thủ tướng và đại diện các Bộ, trong đó đại diện các Bộ có mối liên quan trực tiếp đến KH&CN như Giáo dục, Quốc phòng, Thông tin – truyền thông, Y tế, Môi trường – tài nguyên nước, và Phát triển quốc gia đều là Bộ trưởng. Hoặc như mô hình NSTC 2 (Hội đồng KH&CN Quốc gia của Mỹ có thành viên đứng đầu là Tổng thống, còn lại đều là những Bộ trưởng và người đứng đầu các ban, ngành hành pháp. Hiển nhiên dưới sự tham gia chủ trì trực tiếp của người đứng đầu Chính phủ tại hội đồng, đại diện các Bộ, ngành ở RIEC cũng như NSTC đều phải tích cực, chủ động nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình trong xây dựng, triển khai các chiến lược, chính sách KH&CN của quốc gia.

Mặt khác, để thường xuyên tiếp thu ý kiến từ các nhà khoa học, hạn chế sự quan liêu, chủ quan của các nhà chính trị trong xây dựng các chiến lược, chính sách KH&CN cùng các quyết sách khác của quốc gia, cơ cấu tổ chức của NSTC có các ủy ban tham mưu về khoa học và giáo dục, mà đứng đầu là các nhà khoa học từ các tổ chức KH&CN danh tiếng của Mỹ, đặc biệt là những người từ NSF (Quỹ Khoa học Quốc gia) – các thành viên của NSF đều là những nhà khoa học tên tuổi do giới KH&CN Mỹ đề cử, được Tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn, có nhiệm kỳ sáu năm3. RIEC của Singapore thì đi một bước xa hơn khi các nhà khoa học không chỉ đóng vai trò tham mưu mà còn trực tiếp là thành viên của hội đồng này. 13 trong tổng số 23 thành viên của RIEC là các chuyên gia trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục, các ngành công nghiệp, trong đó, đáng lưu ý là đa số họ không phải người Singapore, mà gồm những nhà khoa học tên tuổi hoặc lãnh đạo các tập đoàn, các tổ chức tư vấn chiến lược giàu uy tín trên thế giới. Điều này thể hiện tinh thần thực dụng, cởi mở, và hội nhập quốc tế sâu rộng trong tư duy, tầm nhìn chiến lược của Singapore, không chỉ giúp cho Chính phủ của họ khỏi lạc hậu so với bước tiến thời đại, mà còn luôn đảm bảo tính gắn kết trong chiến lược phát triển KH&CN của Singapore với nhu cầu các ngành kinh tế của thế giới, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu sắc hiện nay.

Cần quyết tâm chính trị rất lớn từ các nhà lãnh đạo đất nước để KH&CN được đặt vào đúng vị trí của nó, đó là một mặt gắn bó khăng khít và soi sáng các quyết sách từ lớn tới nhỏ của Nhà nước, mặt khác tăng cường tiếng nói phản biện độc lập, khách quan của các nhà khoa học có uy tín, để KH&CN không bị cô lập, đứng ngoài, cũng không mang tính hình thức, phụ họa xuôi chiều.

Tóm lại, việc áp dụng theo mô hình NSTC hoặc RIEC đều có khả năng đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong xây dựng, triển khai các chiến lược, chính sách KH&CN bằng sự tham gia và chịu trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu Chính phủ và đại diện các Bộ, ngành, kết hợp với sự tham gia độc lập, khách quan, chủ động của giới khoa học. Ngoài ra, trong điều kiện của Việt Nam, việc áp dụng theo một trong hai mô hình này sẽ giúp Bộ KH&CN tập trung một cách hiệu quả hơn cho các nhiệm vụ quan trọng khác như cung cấp các dịch vụ hành chính, dịch vụ công trong lĩnh vực KH&CN; kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực KH&CN, các chiến lược, chính sách KH&CN của quốc gia; quản lý nguồn kinh phí Nhà nước dành cho hoạt động KH&CN – chúng ta cũng nên nghiên cứu tham khảo mô hình quản lý KH&CN của Mỹ, nơi nguồn kinh phí của Liên bang dành cho hoạt động KH&CN do sự quản lý của NSF, một cơ quan nhà nước song có tính độc lập rất cao khi các vị trí lãnh đạo do quyết định bổ nhiệm, phê chuẩn của Nhà nước nhưng hoàn toàn theo sự đề cử của giới khoa học. 

--------------------------

Chú thích:

1. http://www.nrf.gov.sg/about-nrf/governance

2. http://www.whitehouse.gov/administration/eop/ostp/nstc3 http://www.nsf.gov/about/

Xem Thêm

Phú Thọ: Đề xuất xây dựng dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng tỉnh nhiệm kỳ 2025 - 2030
Sáng 26/11, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức hội thảo “Nghiên cứu, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025; đề xuất khâu đột phá và một số nhiệm vụ trọng tâm phục vụ xây dựng dự thảo Văn kiện ĐH Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030” đối với đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà KH thuộc các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Quảng Ngãi: Tìm giải pháp hoạt động có hiệu quả cho hợp tác xã
Sáng ngày 26/11, tại thành phố Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Liên minh Hợp tác xã tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học tư vấn phản biện “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hợp tác xã tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2025 – 2030”.
Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…

Tin mới

Phát triển kinh tế báo chí trong chuyển đổi số
Cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ, đặc biệt là sự thay đổi mạnh mẽ trong hệ sinh thái truyền thông, chuyển đổi số là một trong những giải pháp cấp thiết và quan trọng hàng đầu nhằm đạt mục tiêu “hiện đại hóa” hoạt động báo chí theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là “xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”.