Năm Tuất nói về vị thuốc mang tên cẩu
* Cây chó đẻ - còn có tên Diệp hạ châu; tên khoa học Phyllanthus urinaria, họ Thầu dầu Euphorbiaceae - là cỏ dại, thấp, mọc hoang khắp nơi. Đặc điểm có 1 hàng trái mọc dưới lá (hạt châu ở dưới lá). Ở nông thôn sau khi đẻ xong, hoặc bị bệnh, chó thường tìm ăn cây này (nên gọi tên cây Chó đẻ).
Cây được dùng trị viêm da, ung nhọt, phù thũng, viêm gan, là vị thuốc có tác dụng bảo vệ tế bào gan rất tốt, thường được dùng trong đơn thuốc điều trị viêm gan, xơ gan.
Thuốc sức khoẻ đã nhiều lần giới thiệu cây này (xem Thuốc sức khoẻ, số 22, 24, 26, 30, 182, 184, 198, 234).
* Hải cẩu , tên khoa học Callorhinus ursinuslà loại thú ăn thịt, sống trên cạn nhưng thời gian ở dưới biển rất nhiều để săn mồi. Hai chi trước biến thành mái chèo, hai chi sau thành 2 bàn chân khi đi trên cạn và làm bánh lái khi bơi.
Mỗi con đực chiếm giữ vài chục con cái và các con cái này đều sinh con. Phải chăng vì “cái tội” ấy mà Hải cẩu bị săn giết lấy thịt để ăn và lấy dương vật, tinh hoàn làm thuốc Hải cẩu hoànvới lời giới thiệu bổ thận tráng dương dùng chữa yếu sinh lý…
Trong thực tế, không có chuyện ăn gì bổ nấy, do đó viên Hải cẩu hoàn có bán nhưng không mấy hiệu quả. Vài nhà sản xuất thêm vào Hải cẩu nhiều vị thuốc tráng dương khác để gia thêm tác dụng, như Hải cẩu nang chẳng hạn.
* Cây vú chó còn có tên vú bò, óc chó, sung ba thuỳ, tên khoa học Ficus simplicissima, họ Dâu tằm.
Không nên nhầm cây này với cây Hồ đào cũng có tên óc chó. Sở dĩ có tên vú bò, vú chó vì quả có dạng như đầu vú. Quả cùng loại quả cây sung nhưng lá có 3 thuỳ, gọi sung 3 thuỳ. Cây vú chó được giới thiệu trong Thuốc sức khoẻ số 260 với tên vú bò ( Nam hoàng kỳ).
Bộ phận dùng là rễ. Vị ngọt, đắng nhẹ, tính bình.
Tác dụng: khu phong thấp, mạnh gân cốt, khư ứ, tiêu sưng, bổ khí.
Điều trị:
- Được dùng với tác dụng bổ khí với tên Nam hoàng kỳ.
- Rượu bổ tăng sức (tác dụng bổ khí, bổ huyết, bổ thận).
- Trị phong thấp
- Chấn thương, sưng đau: lá và vỏ cây Vú chó giã đắp.
* Cẩu vĩ trùng - còn có tên cây vòi voi, tên khoa học Heliotropium indicum, họ vòi voi (Boraginaceae) - là loại cỏ thấp, thân mềm, nhiều hoa nhỏ mọc trên 1 cuống dài 5-8cm trông như đuôi con chó hoặc vòi con voi.
Trước kia cây này được dùng nhiều trong bệnh thấp khớp nhưng sau này phát hiện cây có độc cho gan, làm giảm bạch cầu, tiểu cầu, gây sẩy thai, gây ung thư nên không dùng dạng thuốc uống nữa. Lá tươi giữ đắp trị ung nhọt, viêm tấy, mụn cóc. Cây vòi voi nấu cao pha thành cao rượu vòi voi dùng đắp ngoài trị sưng đau, nhức khớp xương, viêm da, áp xe, ung nhot.
Vị hơi đắng, mát, nhớt.
Tác dụng: tiêu viêm, giảm đau.
Điều trị:
- Khu phong thấp.
- Đầy bụng, thống kinh, chấn thương sưng đau.
- Áp xe, chín mé, ung nhọt.
* Cây máu chó còn gọi là máu chó cầu, tên khoa học Knema globularia, họ nhục đậu khấu (Myristicaceae).
Cây cao 6-8m, thân thẳng, khi chặt có nhựa đỏ chảy ra. Lá hình mác, mọc so le, đầu nhọn. Quả hình cầu, có cùi màu đỏ.
Dùng bôi trị ghẻ lở.
* Cẩu can thái - còn có tên cỏ gan chó, cây lá diễn, tên khoa học Dicliptera javanica (tên cũ D. chinensis), họ Ô rô - là loại cỏ cao 30-80cm. Thân và cành 4 cạnh. Lá mọc đối hình trứng. Cây mọc hoang nơi ẩm ướt hoặc được trồng để lấy lá nấu canh ăn.
Bộ phận dùng: lá và cành non. Vị ngọt, nhạt, mát.
Tác dụng: Thanh nhiệt, lợi niệu, tiêu viêm.
Sốt cao do siêu vi, cảm mạo.
Lá dùng nấu canh thịt, cá: ăn giải nhiệt.
* Cẩu cốt thích- còn có tên kim cang đằng, tên khoa học Smilax china, họ kim cang (Smilacaceae) - là dây leo sống nhiều năm, thân hơi cứng có gai ngắn, lá không gai, mọc so le, hình xoan. Cây mọc hoang ở các đồi núi. Lá non làm rau ăn.
Bộ phận dùng: thân rễ.
Vị nhạt, tính mát.
Tác dụng: Thanh nhiệt, giải độc, lợi niệu, khu phong trừ thấp.
![]() |
Bộ phận dùng là thân rễ. Mua ở hiệu thuốc với tên thổ phục linh.
Vị: ngọt, chát, tình bình.
Tác dụng: thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, mạnh gân cốt, trừ phong thấp.
Điều trị: Thấp khớp, ung nhọt, chốc lở viêm da, viêm cầu thận mãn.
![]() |
Cây có dạng như cây ráng, có cuống lá dài 1-2m, trơn bóng, màu lục thẫm pha màu nâu. Lá sum suê cho bóng mát dày đặc. Thân rễ hình trụ hơi cong nằm trên mặt đất đường kính 6-15cm, dài 20-40cm phủ lông tơ dày đặc màu vàng sẫm (hình lưng con chó). Để làm vật trang trí thì cắt cuống lá còn để lại 10-15cm. Phần còn lại có dạng như con chó con, con cu ly.
Cây mọc ở rừng núi, ven suối.
Bộ phận dùng: thân rễ cạo bỏ lông thái mỏng. Mua ở hiệu thuốc với tên cẩu tích.
Vị: đắng nhẹ, ấm.
Tác dụng: bổ can thận, mạnh gân xương, trừ phong thấp.
Điều trị: Phong hàn thấp, đau mỏi lưng, đái nhiều lần.
* Cây óc chó - còn có tên hồ đào, hồ đào nhục, hạch đào nhục, hợp đào nhục, hồ đào nhân, tên khoa học Juglans regia, họ hồ đào (không nhầm với cây vú chó nói ở trên) – là loại cây to, sống lâu năm có thể cao đến 20m. Lá kép lông chim, mọc so le, gồm 5-9 lá chét hình trứng, mép nguyên, phiến lá nhẵn. Quả hạch. Nhân có nhiều rãnh nhăn nheo như khối óc, chứa 40-50% dầu béo. Cây thích hợp ở vùng có khí hậu lạnh và ẩm, được trồng nhiều ở miền Bắc nước ta.
Bộ phận dùng: nhân của quả. Mua ở hiệu thuốc với tên hồ đào nhục. Vị ngọt, béo, ấm nhuận.
Tác dụng: bổ thận, tráng dương, bổ phổi.
Điều trị:
- Người gầy yếu, cao tuổi, mới khỏi bệnh.
- Bổ phổi, định suyễn.
Theo Đông y, trong bệnh hen suyễn thì phế thận yếu. Dùng hồ đào nhục vừa bổ thận vừa bổ phổi.
- Dầu óc chó bôi chữa bỏng.
- Quả còn xanh, lá non chứa nhiều vitamin C và caroten. Có thể dùng nấu uống.
- Cao nước lá tươi có tác dụng ức chế một số cầu trùng và trực trùng đường ruột.
* Cây bọ chó - còn có tên khoa mật mông hoa, tên khoa học Buddleja officinalis, họ bọ chó (Buddlejaceae) - là loài cây nhỏ, thân cành non có lông, lá mọc đối. Hoa mọc thành chùm có tuyến mật phát triển, quyến rũ nhiều ong bướm nên dễ thụ phấn, dễ kết trái. Quả có dạng con bọ chó. Cây này mọc hoang ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta. Bộ phận dùng là hoa phơi khô. Mua trong hiệu thuốc với tên mật mông hoa.
Vị: ngọt, lạnh.
Tác dụng: Thanh can nhiệt.
Điều trị: Thị lực kém, mắt đỏ.
Hoa và lá tươi giã đắp trị sưng tấy, viêm da.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 300-301, 15/1-1/2/2006