Một số vấn đề về bảo vệ môi trường khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long
1. Khái quát về đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích tự nhiên là 39.734 km 2, có bờ biển dài trên 700 km từ bờ biển Đông sang bờ biển Tây Vịnh Thái Lan với hải phận trên biển rộng trên 360.000 km2. Đó là một đồng bằng rất bằng phẳng và rộng lớn thuộc châu thổ sông Mê Kông với đặc trưng rất nổi bật; chế độ ngập lũ theo mùa hàng năm với trên 1,2 triệu ha đất canh tác, chế độ ngập mặn do thuỷ triều biển với 1,5 triệu ha đất ven biển, có nhiều đất phèn tiềm tàng và phèn hoạt động với trên 1,5 triệu ha đất canh tác nằm sâu trong lục địa thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười và vùng Bán đảo Cà Mau. ĐBSCL với tổng dân số năm 2005 là 17,3 triệu người gần bằng 21% dân số của cả nước. Tăng trưởng kinh tế hằng năm trong những năm gần đây đạt trên 8,55%, thu nhập bình quân đầu người khoảng 560 USD vẫn còn thấp hơn mức bình quân trong cả nước. Cơ cấu kinh tế của ĐBSCL hiện nay là: khu vực nông – lâm – ngư là 48%, khu vực công nghiệp và xây dựng là 22% và khu vực dịch vụ là 30%, trong đó đáng chú ý là cơ cấu lao động khu vực I là 60%, khu vực II là 13% và khu vực III là 27% đã cho thấy nền kinh tế - xã hội ở đây vẫn chủ yếu là nền kinh tế phụ thuộc sinh thái rất cơ bản.
ĐBSCL là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất toàn quốc với sức sản xuất hàng năm trên 1,9 triệu tấn lúa, khai thác thuỷ hải sản trên 1,8 triệu tấn và trái cây ăn quả trên 1,4 triệu tấn các loại. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp trong cả vùng chiếm hơn 1/3 của cả nước, nhưng đối với sản xuất công nghiệp chỉ chiếm hơn 10% cả nước đã cho thấy đây là một vùng công nghiệp chưa phát triển. Kim ngạch xuất khẩu trong khu vực năm 2004 là 2,48 tỷ USD và năm 2005 đạt khoảng 3 tỷ USD.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực ĐBSCL trong những năm qua từ 1988-2005 có tổng số 296 dự án với tổng vốn đăng ký là 1,977 tỷ USD trong đó vốn pháp định là 853,2 triệu USD và trong năm2005 đầu tư trực tiếp nước ngoài có 24 dự án với vốn đăng ký đạt 148,8 triệu USD. Vấn đề này cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực ĐBSCL vẫn còn ở mức khiêm tốn so với tiềm năng phát triển kinh tế ở đây và so với nhiều khu vực khác trong cả nước vẫn ở mức thấp.
2. Tình hình phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp
Trong những năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước vào các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) tại các địa phương trong khu vực ĐBSCL đã trở thành động lực quan trọng, trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước trong toàn khu vực đã tạo ra làn sóng chuyển dịch cơ cấu sản xuất và hợp tác quốc tế rất mạnh mẽ, nhanh chóng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở mới hiện đại và có giá trị rất lớn, lâu dài cho phát triển kinh tế. Góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao trình độ dân trí, năng lực sản xuất công nghiệp và mở rộng thị trường cho sản xuất tiêu dùng và xuất khẩu. Đồng thời nâng cao năng lực trình độ công nghệ sản xuất trong hệ thống sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trong nước trước xu tế hội nhập quốc tế.
Đến năm 2005 trong toàn khu vực ĐBSCL đã hình thành và phát triển 111 KCN và CCN, trong đó có 17 KCN do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Tổng số dự án đầu tư nước ngoài vào khu vực ĐBSCL là 70 dự án với tổng số vốn 485,723 triệu USD, số đầu tư trong nước là 424 dự án với tổng số vốn là 5.867 tỷ đồng. Đặc biệt, đã thu hút trên 32.000 lao động hoạt động trong các KCN và CCN ở ĐBSCL. Đánh giá thống kê thời gian qua cho thấy, quy mô diện tích mỗi dự án bình quân chiếm 1,4 ha với suất đầu tư dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là 6,93 triệu USD và dự án trong nước là 13,83 tỷ đồng. Các địa phương có quy mô đầu tư lớn tập trung ở một số tỉnh như TP. Cần Thơ, tỉnh Vĩnh Long, Long An, Cà Mau, Kiên Giang… đang có bước tăng tốc thu hút vốn đầu tư trong, ngoài nước và các KCN và CCN.
Thành phố Cần Thơ có KCN Trà Nóc I với diện tích là 135 ha trong đó đất công nghiệp là 95 ha, có tổng số 104 dự án trong đó có 67 dự án đã xây xong và đi vào hoạt động. Hiện nay khả năng lấp đầy các dự án đạt 100% trong KCN. Khu công nghiệp Trà Nóc II có diện tích 165 ha với diện tích đất công nghiệp là 114 ha thuộc quân Ô Môn đã có 19 dự án vào thuê 89,6 ha. Ngoài ra, còn có một số KCN mới đang hình thành và phát triển như KCN, tiểu thủ công nghiệp Thốt Nốt với trên 11 dự án đang làm thủ tục đầu tư, KCN Thới An, KCN Thới Long…
Tỉnh Bến Tre đang tập trung thực hiện dự án xây dựng cơ sở hạ tầng KCN Giao Long với diện tích 149,8 ha được chia làm 2 khu là: Khu A (Giao Long) là khu vực chính các cơ sở sản xuất và các công trình phục vụ sản xuất có tổng diện tích 96,3 ha. Khu B (Giao Long) có diện tích 53,5 ha là khu dân cư phục vụ sản xuất và tái định cư…
Luồng đầu tư vào tỉnh Long An tăng mạnh, tập trung vào các KCN, CCN do đó có vị trí thuận lợi gần TP. Hồ Chí Minh. Diện tích đất công nghiệp có đủ điều kiện hạ tầng theo quy hoạch khoảng 5.000 ha trong đó giao cho các nhà đầu tư trực tiếp là 3.500 ha. Phân bố các loại hình công nghiệp là: Công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, hàng tiêu dùng, công nghiệp nhẹ, vật liệu xây dựng ít gây ô nhiễm… tập trung bố trí ở các KCN thuộc huyện Đức Hoà, Bến Lức, thị xã Tân An, Thủ Thừa. Công nghiệp nặng, công nghiệp ô nhiễm mức độ cho phép, sản phẩm cồng kềnh bố trí tại các KCN huyện Cần Đước, Cần Giuộc, Tân Trụ… nhằm phân loại ô nhiễm để tập trung xử lý đáp ứng yêu cầu.
Tỉnh Đồng Tháp có 3 KCN đó là: KCN Sa Đéc đóng tại thị xã Sa Đéc với tổng diện tích 180 ha gồm 4 tiểu khu: tiểu khu C (30 ha), tiểu khu C mở rộng (60 ha), tiểu khu A (40 ha) và tiểu khu A mở rộng (50 ha). KCN Sa Đéc nằm cạnh phía Nam bờ sông Tiền, sát quốc lộ và tỉnh lộ 848 cách cầu Mỹ Thuận 15 km và có cảng tàu 5.000 tấn cập bến cảng. KCN Trần Quốc Toản tại thị xã Cao Lãnh với diện tích 60 ha, nằm sát quốc lộ 30 nối với quốc lộ 1A trên tuyến giao thương từ biên giới Việt Nam – Campuchia qua Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An, TP. Hồ Chí Minh tiếp giáp bờ Bắc sông Tiền có cảng cập tàu 3.000 tấn cập bến.
Tỉnh Cà Mau có nhiều dự án về chế biến và sử dụng khí thiên nhiên như KCN Khi - Điện - Đạm Cà Mau, các KCN và CCN trong tỉnh đang tập trung phát triển.
Tỉnh Kiên Giang và các tỉnh còn lại đang tiếp tục hình thành nhiều KCN và CCN nhằm tăng cường phát triển lĩnh vực sản xuất công nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
3. Bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp và cụm công nghiệp
Vấn đề bảo vệ môi trường trong các KCN, CCN là vấn đề nóng bỏng có tính chất rất bức xúc trong phạm vi cả nước cũng như tại ĐBSCL. Trong cả nước có 131 KCN, khu chế xuất (KCX) mà trong đó mới chỉ có 33 KCN, KCX đã xây dựng hệ thống xử lý tập trung, 10 KCN, KCX khác đang tiến hành đầu tư xây dựng còn lại đều chưa có các dự án xử lý chất thải tập trung trong KCN, KCX. Ở khu vực ĐBSCL, vấn đề đầu tư hệ thống xử lý tập trung trong KCN, CCN chưa đáp ứng yêu cầu BVMT đặt ra. Hiện nay, chưa có KCN, CCN nào có hệ thống xử lý được đầu tư và vận hành đạt tiêu chuẩn môi trường quy định một cách hoàn chỉnh. Vấn đề thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường các KCN, các dự án đầu tư và Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường của các cơ sở vẫn còn mang tính thủ tục chưa thật sự là căn cứ để các Ban quản lý các KCN, các chủ doanh nghiệp tập trung vào đầu tư các hệ thống xử lý theo quy định của Luật BVMT. Quy hoạch các KCN, CCN chất lượng chưa cao trong việc bố trí các khu chức năng chưa phù hợp, khả năng dự báo và lượng hoá số lượng và chất lượng các nguồn thải như khí thải, rác thải công nghiệp, rác thải công nghiệp nguy hại, nước thải sản xuất công nghiệp… còn rất hạn chế làm ảnh hưởng đến khả năng hoạch định kế hoạch xử lý triệt để các nguồn thải này là rất khó khăn. Một số khá lớn các KCN, CCN còn rất lúng túng trong lựa chọn công nghệ thích hợp và đặc biệt là nguồn vốn đầu tư vận hành hệ thống xử lý liên tục cũng như việc bố trí nguồn nhân lực thực hiện nhiệm vụ BVMT trong các KCN, CCN. Các KCN, CCN còn tập trung quan tâm khả năng lấp đầy các dự án đầu tư mà thiếu bố trí các khu chức năng, loại hình sản xuất phù hợp để đảm bảo các yêu cầu BVMT cũng như an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường công nghiệp, phòng chống sự cố môi trường có thể xảy ra. Bên cạnh đó các KCN, CCN chưa đảm bảo chế độ quan trắc môi trường định kỳ, trang thiết bị quan trắc môi trường còn rất hạn chế, thực hiện quy định báo cáo môi trường cho các cơ quan quản lý về BVMT còn chưa đều đặn, sự hợp tác phối hợp giữa Ban quản lý KCN, CCN, cơ quản BVMT, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư còn chưa chặt chẽ… đã hạn chế đến nhiệm vụ BVMT trong các KCN, CCN ở ĐBSCL.
Để đảm bảo yêu cầu BVMT trong các KCN, CCN thuộc khu vực ĐBSCL, các Ban quản lý KCN, CCN và chủ doanh nghiệp cần tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau đây:
- Đối với Ban Quản lý các KCN, CCN,phải tuân thủ nghiêm ngặt Quy hoạch phát triển tổng thể đã được các cấp chính quyền phê duyệt, phải bố trí các khu chức năng và loại hình sản xuất phù hợp đáp ứng yêu cầu BVMT. Đầu tư và vận hành các hệ thống thu gom tập trung, phân loại hợp lý chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn nguy hại, phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung, hệ thống xử lý khí thải đạt tiêu chuẩn môi trường quy định. Có cảnh quan môi trường trong KCN, CCN đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ người lao động, có hệ thống quan trắc cảnh báo môi trường và có đủ bộ phận chuyên trách thực hiện nhiệm vụ BVMT tại KCN, CCN. Đặc biệt các KCN, CCN tập trung có nguy cơ tác hại môi trường lớn còn phải đáp ứng khoảng cách an toàn với khu dân cư và các khu bảo tồn thiên nhiên.
- Đối với các doanh nghiệp,phải tuân thủ các quy định về BVMT như có hệ thống hạ tầng thu gom và xử lý chất thải đáp ứng yêu cầu xử lý tập trung, các thiết bị thu gom, phân loại và lưu giữ chất thải rắn công nghiệp, đảm bảo các nguồn lực phòng chống sự cố môi trường. Các kho tàng và các doanh nghiệp phải đảm bảo an toàn về khoảng cách đối với khu vực dân cư xung quanh đặc biệt là các chất dễ cháy nổ, chất phóng xạ hoặc bức xạ mạnh, chất độc hại đối với môi trường và sức khoẻ cho con người và gia súc gia cầm, phát tán mùi hôi, bụi… để bảo đảm tiêu chuẩn môi trường quy định.
Nguồn: T/c Khoa học Cần Thơ, số 4, 2006







