Một số vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức
Ngày 6.8.2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) đã ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, trong đó có Nghị quyết số 27-NQ/TW về Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong Nghị quyết này, trí thức được xác định là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.
Với nội hàm của khái niệm trí thức như vậy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có những đánh giá cao về sự đóng góp của trí thức vào việc xây dựng luận cứ khoa học cho công tác hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp nhiều vấn đề phát sinh trong sự nghiệp đổi mới. Nghị quyết cũng đề cập tới sự đóng góp tích cực của đội ngũ trí thức trong các lĩnh vực quản lý xã hội, khoa học và công nghệ (KH&CN), an ninh - quốc phòng, sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nghị quyết cũng nêu lên những yếu kém của đội ngũ trí thức hiện nay như trong khoa học xã hội còn thiếu năng lực dự báo và định hướng, nhiều công trình còn có tính sao chép; trong khoa học công nghệ còn ít những sáng chế được đăng ký quốc tế; trong văn học - nghệ thuật còn ít giá trị xứng tầm với những thành tựu phát triển của đất nước Về sự lãnh đạo của Đảng, Trung ương Đảng cho rằng, hệ thống chính sách về trí thức hiện nay vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ và chưa phù hợp, các tổ chức hội chưa đủ mạnh để tập hợp trí thức, việc đánh giá và sử dụng trí thức còn nhiều điểm không hợp lý...
Sau khi có những nhận xét và đánh giá trên, Trung ương Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc: “Những hạn chế, khuyết điểm trên là do sự yếu kém của một số cấp uỷ Đảng, chính quyền trong lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện công tác trí thức; sự thiếu đồng bộ của hành lang pháp lý bảo đảm môi trường dân chủ cho các hoạt động sáng tạo; những định kiến và chủ nghĩa kinh nghiệm trong một bộ phận cán bộ đã dẫn đến thái độ thiếu tin tưởng, thiếu dân chủ trong quan hệ với trí thức, thậm chí xem thường trí thức”.
Nghiên cứu kỹ Nghị quyết số 27-NQ/TW, tôi thấy có nhiều điều tâm đắc. Tuy nhiên, qua nhiều năm nghiên cứu về đội ngũ trí thức, về kinh tế tri thức và yêu cầu của nó với nguồn nhân lực chất lượng cao, về hội nhập quốc tế và việc đào tạo trí thức ở nước ta, tôi muốn bày tỏ một vài ý kiến như sau:
1. Cơ cấu đội ngũ trí thức có nhiều lớp khác nhau, trong đó, đáng kể nhất là những trí thức đang đóng vai trò quan trọng trong việc tập hợp và tổ chức lực lượng nghiên cứu và sáng tạo cũng như trong đào tạo đội ngũ kế cận. Họ là những trí thức đầu ngành, có vai trò quyết định hướng đi của KH&CN, văn học - nghệ thuật, sản xuất kinh doanh... Với họ, ta cần hiểu đây là những tài năng, những hiền tài của quốc gia. Sự đánh đồng những người có học vấn đại học, có một số đóng góp nào đó với những bậc hiền tài này là chưa hợp lý về chính sách, nhất là chính sách sử dụng và đãi ngộ.
Giáo sư Vũ Khiêu có một quan niệm rất đáng lưu ý về những trí thức cấp cao: “Suy tư của người trí thức vừa là số mệnh của anh ta, vừa là một điều bất hạnh. Trí thức là người biết rộng hơn, biết sâu hơn và nhìn xa hơn những người không phải là trí thức. Chính vì thế mà người trí thức đã lo trước khi người khác chưa lo. Anh ta thấy rõ con đường phải đi khi người khác chưa thấy. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào tương lai khi người khác còn chưa tin tưởng. Vì thế, ưu hoạn của người trí thức là định mệnh của anh ta” (Vũ Khiêu: “Nguyễn Trãi, khí phách và tinh hoa của dân tộc” - Những gương mặt trí thức - Tập 1, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 1998).
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), về việc tìm kiếm người tài đức ra giúp nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi các bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”.
Đọc những dòng chữ này, những người dân bình thường cũng thấy xúc động. Hiện nay, Đảng và Chính phủ cũng có chỗ nghe không đến, thấy không khắp, do đó mới tự phê bình rằng: Có cấp uỷ vẫn không tin trí thức, mất dân chủ với trí thức.
Do vậy, Đảng và Nhà nước nên có chính sách riêng với những trí thức đầu ngành, không nên đánh đồng họ với những lớp đàn em, những lớp học trò của họ trong một chính sách chung thực hiện được những chức năng cơ bản sau đây:
Chức năng bảo vệ, duy trì, phát huy và phát triển văn hoá
Hội nghị Trung ương 5 (Khoá VII) của Đảng đã khẳng định rất rõ vai trò của trí thức đối với sự phát triển văn hoá. Đây là một chức năng rất đặc thù của trí thức. Ở quốc gia nào cũng vậy, sự phát triển văn hoá không thể thiếu vai trò quan trọng của những người lao động trí tuệ này.
Chức năng phản biện xã hội
Do trình độ học vấn được nâng cao, nắm bắt được những thông tin trong nước và trên thế giới một cách mau lẹ, luôn được cập nhật những tri thức mới, sớm tiếp cận với những thành tựu KH&CN mới mà trí thức thường hay đề xuất những ý kiến, những quan điểm của mình đối với những gì đã trở nên lỗi thời trong xã hội. Trước những cách nghĩ, cách làm thể hiện tính thủ cựu của người khác, trí thức thường phê phán, thậm chí còn lên án rất mạnh mẽ. Sự phản ứng gay gắt và thành kiến sâu sắc của một số người có chức, có quyền đối với những trí thức có ý kiến trái tai thường mang lại kết quả không hay, ví dụ, có một số trí thức không góp ý, không nhận xét, không bình luận gì nữa. Một số việc làm không đúng do thiếu sự phản biện, được dễ dàng thực hiện thì từ đó sẽ có những tác hại đến xã hội.
Ngày trước, Nguyễn Trường Tộ từng đệ trình lên nhà vua về hiện tượng ông thấy ở nước Pháp: Người ta treo ngược đèn (đèn điện) và làm cho nước chảy ngược (vòi phun nước), cần học hỏi, nhưng triều đình cho là hoang đường và phản động. Đó là một ví dụ điển hình về sự bảo thủ rất đáng phê phán.
Chức năng đào tạo đội ngũ trí thức kế cận, bồi dưỡng nhân tài
Từ xưa tới nay, những nhà hiền triết, bậc học giả và những nghệ nhân... thường có những môn đệ của mình. Đó là việc làm có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển, tương lai của đất nước. Trong lịch sử, chúng ta thấy Khổng Tử, Mạnh Tử, Leonard De Vinci, Jean Jacques Rousseau, Albert Einstein, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm... đều có những học trò thành đạt của mình. Ngày nay, tên tuổi của Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Lưu Hữu Phước, Tô Ngọc Vân và hàng trăm nhà khoa học, nhà giáo, nhà kinh tế, nhà soạn nhạc cùng nhiều thầy thuốc, nghệ sỹ không chỉ gắn với công việc chuyên môn, mà còn thấy ở họ sự đóng góp vào việc xây dựng đội ngũ trí thức nước nhà.
Chức năng đào tạo của trí thức càng cần được nhấn mạnh trong điều kiện chúng ta còn thiếu nhiều người tài đức. Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đang có những bước phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế tri thức đang từng bước hình thành, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang được đẩy mạnh, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang lôi cuốn nhiều quốc gia vào những hoạt động chung. Tất cả những sự kiện đó đều đòi hỏi đất nước phải có nhiều nhân tài. Những quốc gia nào chỉ dựa vào nguồn lao động trình độ thấp và trông chờ vào nguồn tài nguyên thiên nhiên không thôi sẽ bị tụt hậu ngày càng xa trước sự phát triển vũ bão của thế giới.
Điều đáng nói ở đây là chính sách đối với công việc đào tạo của trí thức còn nhiều điểm phải chỉnh sửa và bổ sung. Ví dụ, tiền bồi dưỡng cho một giáo sư hướng dẫn một nghiên cứu sinh trong một tháng không bằng tiền dự hội thảo khoa học trong một ngày; tiền nhuận bút viết sách giáo khoa, viết sách tham khảo của nhà khoa học không bằng tiền của người phát hành được hưởng... Tất nhiên không vì thế mà trí thức sẽ thôi tham gia vào đào tạo và viết sách. Song, cũng không vì thế mà có thể kéo dài mãi hiện tượng này.
Chức năng xã hội
Chính sách đối với chức năng xã hội của trí thức trước hết là ở việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các Hội văn học, Hội nghệ thuật, Hội giáo dục phát triển. Những hoạt động mang tính nghiệp đoàn của các tổ chức trí thức không chỉ làm phát triển chuyên môn, nghiệp vụ mà còn góp phần không nhỏ vào các cuộc vận động như xóa đói giảm nghèo, chống tái mù chữ, cải thiện môi trường sống, xây dựng đường phố văn minh, phòng ngừa các dịch bệnh... Trí thức tham gia nghị trường và công tác quản lý xã hội sẽ làm tăng năng lực hoạt động điều hành và quản lý xã hội của Nhà nước.
Trí thức luôn là vấn đề của thời đại. ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, đội ngũ trí thức trong xã hội có những khác nhau về trình độ học vấn, cơ cấu nghề nghiệp cũng như tư tưởng - chính trị..., nhưng dù khác nhau ở mức độ nào chăng nữa thì điểm đặc trưng của đội ngũ này trong mọi thời đại vẫn là: Đại diện cho trí tuệ đương thời, cho đỉnh cao học vấn của xã hội, cho trình độ lao động trí óc. Trí thức có sứ mạng phổ biến, duy trì, phát triển văn hoá của dân tộc nói riêng và nhân dân nói chung.
Mấy trăm năm trước, Lê Quý Đôn đã có sự tổng kết tài tình: “Phi công bất phú; phi thương bất hoạt; phi nông bất ổn; phi trí bất hưng”. Sự hưng thịnh của quốc gia phụ thuộc rất lớn vào vai trò và thái độ của tầng lớp trí thức đối với chế độ xã hội. Ông cha ta hiểu rất rõ điều này và từ đó hình thành nên truyền thống “Tôn sư trọng đạo”, “Chiêu hiền đãi sỹ”, “Trọng dụng hiền tài”... Văn Miếu - Quốc Tử Giám, một kiểu đại học ở nước ta vào giữa thế kỷ XI, xuất hiện vào loại sớm so với nhiều nước trên thế giới, là nơi đào tạo nhiều nhà trí thức Việt Nam . Đọc Bia Văn Miếu, ta có thể thấy sự tôn vinh những bậc hiền tài của người xưa: “Muốn xây dựng nên thịnh trị cho đất nước, phải dựa vào nhân tài. Nhân tài sinh ra bao la khôn cùng, song có dạy mới nên, có dựng mới thấy. Kìa như giống quýt miền Giang Phố, giống dâu miền Vân Mộng, giống lê táo miền Thường Sơn Đông quận, đều lựa đất mà sinh sôi. Còn nhân tài thì không như thế, từ thành lớn, ấp to đến thôn nghèo, xóm vắng, từ con em các nhà công khanh đến lớp hàn nho ở miền thôn dã, ai cũng có bản chất thông minh, ai cũng ham học hỏi, việc nuôi dạy và tuyển dụng là do người bề trên mà thôi” (trích bia Khoa Quý Mùi, năm Cảnh Hưng thứ 24-1763).
Người xưa để lại bài học tôn trọng hiền tài hết sức sâu sắc. Lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc qua hàng ngàn đời cho thấy vận mệnh đất nước luôn luôn gắn với hiền tài. Sử thần Ngô Sỹ Liên viết: “Không tin người hiền thì nước như không có người”. Bài ký của Đỗ Nhuận có đoạn: “Việc chính trị lớn của Đế Vương không gì cần bằng nhân tài; muốn đầy đủ chế độ của nhà nước, tất phải đợi ở hậu Thánh. Vì là chính trị mà không lấy nhân tài làm gốc, chế tác mà không nhờ ở Đế Vương đời sau, đều chỉ cẩu thả, sao đủ khiến chính trị phong hoá đều thịnh, khiến văn vật điển chương đều đủ?” (trích bài Ký Đỗ Nhuận - Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 3, tr.286, 287).
Daisaku Ikeda, một học giả ở nước Nhật, đã viết như sau: “Trí thức mắc nợ xã hội vì xã hội đã ứng trước cho học vấn, họ phải trả. Xã hội mắc nợ trí thức nên phải trả công để họ làm việc có hiệu quả, vì công việc của họ có giá trị xã hội”. Theo ông, nếu có cái hố ngăn cách giữa trí thức với nhân dân thì đó là do lập trường tự mãn của trí thức. Ông cho rằng, làm như vậy, trí thức đã tự đánh mất sự ủng hộ của nhân dân, tạo ra sự sụp đổ của chính người trí thức.








